
Sylbee Kim (bên phải) chia sẻ tại Thư viện Heritage Art Space. Ảnh: Cao Thiên Thanh.
Giới thiệu: Nghệ thuật giữa Cơ thể và Tâm trí
Tôi là một công dân Hàn Quốc, nhưng tôi đã sống ở Berlin trong suốt 20 năm qua. Khi trở về Hàn Quốc, tôi thường cảm thấy mình giống như một du khách – hoặc là hầu hết mọi lần tôi đều về để làm việc – trong khi ở Berlin, tôi vẫn không cảm thấy có sự neo đậu, vì tôi thấy mình không hoàn toàn thuộc về xã hội Đức. Tôi tồn tại ở một khoảng lưng chừng, và cảm giác ở “lưng chừng” này đã định hình cả cá tính cũng như bản sắc nghệ thuật của tôi.
Đây là lần đầu tôi đến Việt Nam để tham gia dự án
Song of the Wind do giám tuyển Hàn Quốc, Sunyoung Oh, khởi xướng. Chị hiện đang khởi động giai đoạn nghiên cứu của dự án, và tôi đã đến Việt Nam được hai tuần. Tôi sẽ ở đây đến cuối tháng 4 với rất nhiều kế hoạch di chuyển. Một trong những trải nghiệm ý nghĩa nhất của tôi cho đến nay là chuyến đi đến La Pán Tẩn ở Mù Căng Chải – một hành trình đầy ắp sự học hỏi và phản tư. Tôi sẽ rất biết ơn nếu bạn có bất kỳ lời khuyên nào về những nơi tôi nên đi, ai tôi nên gặp, hoặc cộng đồng nào tôi nên tìm hiểu thêm – đặc biệt là những cộng đồng thường bị lãng quên ở Hà Nội.
Tình trạng hiện tại của tôi, cả với tư cách cá nhân cũng như một nghệ sĩ thực hành, đồng điệu sâu sắc với tiêu đề của bài thuyết trình hôm nay.
Càng dành nhiều thời gian ở Hàn Quốc và Đức, tôi càng thấy mình bị thu hút không chỉ bởi sự khác nhau, mà còn bởi những tương đồng bất ngờ giữa hai phía. Kể từ khi đặt chân vào thế giới nghệ thuật sau khi hoàn thành văn bằng thứ hai của mình tại Đức vào năm 2010, tôi ngày càng quan tâm đến việc tìm kiếm những điểm chung giữa các nền văn hóa và trải nghiệm tưởng như cách biệt. Nghiên cứu của tôi ở Việt Nam phản ánh điều này: Tôi đang khám phá những cộng đồng đa dạng và các tiếng nói thiểu số ở Việt Nam và cố gắng tìm hiểu xem liệu những giá trị hoặc các hy vọng tập thể có thể được khám phá và hình thành một nền tảng cho sự hiểu biết lẫn nhau một cách sâu sắc hơn hay không.
Tôi sẽ mô tả quá trình này như việc thu thập những viên sỏi bên bờ sông – mỗi viên đều có câu chuyện lịch sử riêng – và nhẹ nhàng gom chúng lại với nhau, giống như những cột đá cầu nguyện mà bạn có thể thấy gần các ngôi đền Hàn Quốc. Những cột đá vô danh này được dựng lên từ từng viên đá đơn lẻ, chứa đựng những lời cầu nguyện hoặc ước vọng thầm lặng. Đó chính là ẩn dụ thị giác cho những gì tôi đang cố thực hiện: tập hợp các câu chuyện và trải nghiệm sống cá nhân với hy vọng có thể cùng tạo nên một điều ý nghĩa.
Tựa đề của bài giảng này cũng đến từ cách tôi đã di chuyển với nghệ thuật của mình trong suốt nhiều năm. Ban đầu tôi hầu như chỉ đi lại giữa Berlin và Seoul, nhưng qua thời gian, những địa điểm khác dần xuất hiện ở khoảng giữa hai nơi này – chẳng hạn Jordan, nơi tôi đã đến vào năm 2019 với một nhóm nghệ sĩ quốc tế từ Berlin. Chúng tôi hợp tác với các nghệ sĩ địa phương tại Amman, và thật lạ là tôi lại cảm thấy nơi này thân thuộc như thể một điểm dừng chân trên đường về quê. Tôi nhận ra rằng bất chấp những khác biệt về văn hóa, vẫn có những cảnh quan tình cảm chung xuyên biên giới – những thực tế bất khả diễn dịch mà tôi không thể tưởng tượng được nếu không trực tiếp ở tại nơi đó.
Hình ảnh © Sylbee Kim.
Năm ngoái, tôi đã tạo ra một giản đồ để phản ánh điều này. Tôi diễn tả cơ thể vật lý của mình có thể đang ở một nơi, nhưng tâm trí, mong ước, suy nghĩ của tôi lại ở một nơi khác. Tôi ước nghệ thuật của mình có thể trở thành một khoảng thời-không nơi các nơi chốn, con người, và kỷ niệm xa xôi có thể hội tụ. Chẳng hạn, tôi có thể đang đi bộ trên phố Berlin, nhưng lại nghĩ về bạn bè ở Hàn Quốc, và đồng thời nhận thấy cơ thể mình đón nhận những ánh nhìn khác biệt trong không gian vật lý đó. Nơi đó có cái Tôi và cái Bạn, có Ở đây và Lúc này, và Đâu đó và Mai sau. Có thế giới Thật nơi chúng ta cư ngụ, và cả thế giới ảo nơi chúng ta đồng thời đắm chìm – được kết nối thông qua các mạng kỹ thuật số.
Tôi cho rằng thực hành nghệ thuật của mình luôn là sự điều hướng giữa những khoảng lưng chừng này và những lớp tồn tại có khả năng giao thoa. Phần mở đầu vừa rồi có lẽ khá trừu tượng, nhưng đó là cách tôi định vị bản thân trước khi chia sẻ những hình ảnh và câu chuyện cụ thể hơn từ những hành trình của mình.
Giữa hai nền Giáo dục Nghệ thuật
Đại học
Nghệ thuật Quốc gia Hàn Quốc (K-ARTS), nơi tôi hoàn thành bằng cử nhân đầu tiên, là một dự án do chính phủ thành lập nhằm cung cấp giáo dục nghệ thuật ngang tầm quốc tế, để các sinh viên Hàn Quốc có thể học ở trong nước thay vì cố gắng đi du học nước ngoài. Khi ra đời, trường chỉ có sáu khoa – Kịch, Múa, Âm nhạc, Điện Ảnh và Đa phương tiện, Nghệ thuật Thị giác, và Nghệ thuật Truyền thống Hàn Quốc – và không có ngành khoa học nhân văn. Nó được thiết kế như một giải pháp giáo dục nghệ thuật thay thế cho các khoa nghệ thuật ở những trường đại học ưu tú, với những chương trình học mang tính thử nghiệm hơn.
Thủ tục tuyển sinh của trường rất phá cách. Thay vì chọn thời gian trùng với kỳ tuyển sinh đại học quốc gia thường diễn ra vào tháng 11, nhà trường tự bắt đầu chương trình tuyển sinh vào tháng 8. Học phí của trường thấp hơn các trường tư và còn có học bổng trao đổi dành cho cả sinh viên trong nước cũng như sinh viên quốc tế. Tôi là sinh viên khóa thứ ba của trường, khi tôi nhập học cơ sở sở vật chất của trường vẫn còn chưa hoàn thiện, không gian triển lãm rất hạn chế, khoa nghệ thuật thị giác nằm ở tòa nhà trước khi là trụ sở của cơ quan an ninh nơi vẫn còn lưu lại rất nhiều thiết bị kỳ lạ như hệ thống radar, và các phòng trước khi dùng để điều tra, thậm chí là nơi tra tấn. Rất nhiều những góc nhỏ bị lãng quên ấy được sinh viên chúng tôi cải tạo và biến thành không gian làm tác phẩm và triển lãm.
Khi tôi vào năm cuối, trường vốn định chia triển lãm tốt nghiệp của chúng tôi thành ba nhóm trưng bày ở những phòng triển lãm nhỏ khác nhau ngoài khuôn viên, và chúng tôi không thích điều đó. Chúng tôi đã tự mình đứng ra tổ chức triển lãm tại sân bóng rổ trong trường. Chúng tôi tự dựng các bức tường, thiết kế các gian triển lãm và biến đổi toàn bộ sân bóng thành nhà triển lãm. Tinh thần nổi loạn và sáng tạo đó đến nay đã trở thành truyền thống cho sinh viên các năm tiếp theo. Tôi tin rằng đây mới chính là sự hỗ trợ cần thiết cho sinh viên nghệ thuật – cho phép họ có không gian và thời gian để xây dựng những thứ mới từ nguồn lực mà nhà trường vốn có. Đối với tôi, trường nghệ thuật chính là không gian an toàn nhất dành cho các thử nghiệm, nơi không có kiểm duyệt và phê bình mang tính xây dựng là cốt lõi của giáo dục. Đôi khi lịch sử bắt đầu bằng việc xây dựng cái mới từ những gì chúng có trong tay.
Học tập từ di sản: Từ Nghệ thuật Nhân dân đến Nghệ thuật Đương đại
Hình ảnh đầu tiên là về phong trào Nghệ thuật nhân dân (
Minjung Art movement) diễn ra vào thập niên đầy biến động về 1980 tại Hàn Quốc trong không khí căng thẳng giữa chế độ quân sự độc tài và các hoạt động đấu tranh chính trị. Các nghệ sĩ đã sử dụng ngôn ngữ dũng cảm, đầy khiêu khích – thường là các băng rôn trưng bày ở các không gian công cộng – để thu hút công chúng tham gia biểu tình phản đối chính phủ độc tài. Rất nhiều nghệ sĩ trong số đó, hầu hết là nam, sau này trở thành những nhân vật quan trọng của giới nghệ thuật và văn hóa chính trị trong thời kỳ dân chủ hóa Hàn Quốc vào thập niên 1990 và 2000. Theo thời gian, những tác phẩm cấp tiến của họ được kinh viện hóa, lưu trữ, lịch sử hóa và thương mại hóa.
Một trong những giảng viên đầu tiên của tôi, thầy
Ahn Kyuchul, thuộc về thế hệ cầu nối giữa nghệ thuật chính trị và cái chúng ta gọi là nghệ thuật đương đại ngày nay. Tác phẩm của ông vẫn giữ lại nhiều tính phê phán nhưng về hình thức thì phức tạp và trung tính hơn.
Tôi bắt đầu học tại K-ARTS vào năm 2001, thực chất là ở khoa Lý Luận. Chương trình học của năm nhất bao gồm các lớp kiến thức nền về nhiều môn thực hành như vẽ, điêu khắc, và trình diễn, nhằm trang bị cho những sinh viên Lý luận như tôi hiểu biết về cách nghệ sĩ làm việc. Tôi bị việc làm tác phẩm hấp dẫn tới mức đến năm thứ hai đã quyết định đăng ký học thêm một chuyên ngành kép ở khoa Nghệ thuật Thị giác.
Lớp của thầy Ahn rất nổi tiếng nên khá khó để đăng ký được một suất học. Tôi là sinh viên lý luận duy nhất trong lớp, các bạn khác khi thấy tôi ở đó thì ai cũng như muốn hỏi: tại sao mày ở đây! Thầy Ahn nói với mọi người: “Chấp nhận bạn ấy vào lớp chính là làm giàu thêm tri thức cho cả chúng ta. Chúng ta cần ‘bao dung’ với bạn ấy.’ Đó chính là cánh cửa để tôi chính thức bước vào thế giới thực hành nghệ thuật đương đại.
Thầy Ahn từng học ở Stuttgart, hồi đó rất nhiều nghệ sĩ có ảnh hưởng của Hàn Quốc mà tôi thích đều có liên quan tới Đức. Khi tôi bước vào năm thứ thư, thầy Ahn tạm nghỉ dạy một năm, và lớp chúng tôi được thầy
Gimhongsok tiếp quản. Thầy Gimhongsok thuộc về thế hệ nghệ sĩ ý niệm trẻ hơn. Dự án hợp tác của thầy với hai nghệ sĩ Tsuyoshi Ozawa (Nhật Bản) và Chen Shaoxiong (Trung Quốc) mang tên
Xijing Men (Những gã trai Tây Kinh) bao gồm những trình diễn châm biếm lấy mô hình các trò chơi Olympic, họ tạo ra một thủ đô giả tưởng “Xijing” (Tây Kinh) như một sự phê phán hài hước về nam quyền và bản sắc dân tộc chủ nghĩa Châu Á.
Thầy Gimhongsok từng học ở Düsseldorf, và tôi tự hỏi: tại sao các nghệ sĩ tuyệt vời và cấp tiến như thế đều có liên quan tới Đức? Sự tò mò ấy đã mở đường cho tôi tiếp tục theo đuổi chương trình sau đại học ở Đức. Bước vào năm thứ ba, tôi đã bắt đầu thực hành video, và thấy chất liệu này vô cùng mang tính khai phóng – đặc biệt là với một phụ nữ trẻ đang bị choáng ngợp trước thế giới nghệ thuật studio truyền thống mang tính vật lý và khắt khe như tôi, video đem đến cho tôi sự tự do.
Học tập tại Đức: Góc nhìn khác biệt từ các nghệ sĩ nữ
Mãi cho đến khi chuẩn bị nội dung cho bài thuyết trình này tôi mới nhận ra một điều rằng: tất cả các giáo sư nghệ thuật của tôi ở Hàn Quốc đều là nam còn ở Đức đều là nữ. Điều này có lẽ phản ánh những tình trạng khác nhau về cân bằng giới trong môi trường học thuật. Rõ ràng là Đức sớm có ý thức về việc phải có giáo sư nữ trong môi trường nghệ thuật, trong khi Hàn Quốc vẫn còn đang phát triển nhận thức này.
Giảng viên đầu tiên của tôi tại
Đại học Nghệ thuật Berlin (UdK Berlin) là
Maria Vedder, một nghệ sĩ video hoạt động từ thập niên 1970. Tác phẩm của bà mang tính ý niệm nhưng rất giàu hình ảnh, khám phá siêu-bản chất của video như một ngôn ngữ. Một trong những tác phẩm quan trọng của bà,
The Heartbeat of the Anubis (1988), là một cuộc khám phá đa tầng đầy tính điện ảnh.
Khoa Video Art nằm trong Trường Thiết Kế, và nhiều lúc việc học rất mang tính kỹ thuật. Vì thế tôi thường sang học bên Trường Mỹ thuật, nơi tôi đăng ký lớp của cô
Christiane Möbus, một nhà điêu khắc với những tác phẩm sử dụng chất liệu phi truyền thống nhằm phê bình cuộc sống đương đại một cách hài hước. Tôi thấy cô Möbus có tinh thần khá nổi loạn, với những cú ngoặt trong việc sử dụng chất liệu tác phẩm đã thách thức một cách tinh tế các thông lệ thống trị về tự sự và về giới. Ngày nay, những nghệ sĩ từng có vẻ rất cấp tiến như cô, một lần nữa, lại được vinh danh trong những bộ sưu tập và triển lãm hồi cố chính thống.
Khi tôi bước vào năm cuối của chương trình cử nhân,
Hito Steyerl đến dạy tại UdK. Thực hành của bà nằm ở ranh giới phát triển từ một nhà làm phim tài liệu và triết gia dần trở thành một trong những nghệ sĩ video số có ảnh hưởng nhất với cách tiếp cận ngôn ngữ kỹ thuật số mới vô cùng mạnh mẽ. Ý tưởng về “hình ảnh chất lượng thấp” của bà – độ phân giải thấp, sao chép, các mảnh hình ảnh trôi nổi trên mạng – vô cùng có tính khai phóng đối với tôi. Nó khẳng định rằng sản xuất hình ảnh nguyên bản không nhất thiết là điều kiện tiên quyết cho một tác phẩm video. Kết cấu, sự bóp méo, và tính siêu phê phán có thể là những chất liệu vô cùng quý giá. Tác phẩm của bà dạy tôi rằng mọi thử nghiệm đều có giá trị, nếu bề mặt và tính vật chất của tác phẩm video nhất quán với ý tưởng và cấu trúc. Hiện nay, Steyerl được biết đến với những thử nghiệm về chất liệu số, bao gồm cả AI và việc tạo hình ảnh suy tưởng.
Được học nghệ thuật quả thực là một đặc quyền – ở mọi nơi trên thế giới. Nhưng sau khi tốt nghiệp, tôi thấy mình bị mất kết nối. Học nghệ thuật là một chuyện, gia nhập vào giới nghệ thuật lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Mười lăm năm trước, cả Berlin và Seoul đều có các không gian nghệ thuật do nghệ sĩ điều hành rất năng động. Nhưng chúng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi, cùng lắm là vài ba năm. Tại Berlin, nhiều không gian như vậy nhận được tài trợ – thường là của các hãng bia địa phương – cho các buổi khai mạc triển lãm. Nhưng họ thường phải bán bia này trong sự kiện để trang trải cho chi phí sản xuất chương trình. Đến nay, những không gian như vậy hầu hết đã đóng cửa. Berlin ngày càng trở nên sang chảnh, và rất nhiều không gian “nhếch nhác” của nghệ sĩ trước kia đã biến mất.
Tình hình ở Seoul có vẻ còn cực đoan hơn. Để xây dựng cộng đồng, các nghệ sĩ trẻ thường thuê không gian và cho nghệ sĩ khác thuê lại với giá cao. Mỗi năm các tổ chức như
Hội đồng Nghệ thuật Hàn Quốc và
Quỹ Văn hóa Nghệ thuật Seoul công bố danh sách các triển lãm được tài trợ. Ngay khi kết quả được xuất bản vào tháng 1, các nghệ sĩ giành được quỹ lại phải nộp hồ sơ và hoàn thiện thủ tục đảm bảo tiếp tục thuê không gian. Tôi hiểu lý do cho sự phát triển này của Seoul, một thành phố siêu tập trung tư bản, nhưng tôi vẫn không cho rằng đây là một mô hình bền vững.
Triển lãm nghệ thuật ngày càng trở nên khó khăn. Vì thế, các nghệ sĩ trẻ thường phải tập trung vào làm sự kiện, workshop và tọa đàm thay vì cứ bám lấy mô hình triển lãm truyền thống. Với sự xuất hiện của Hội chợ Nghệ thuật
Frieze Seoul trong vài năm trở lại đây, nhiều nghệ sĩ có mong muốn trực tiếp gia nhập thị trường nghệ thuật ngay sau khi tốt nghiệp. Nhưng mô hình này có tính cạnh tranh rất cao. Tôi là người may mắn vì đã xây dựng sự nghiệp của mình qua các kênh kinh viện – không gian ngoài, bảo tàng, và triển lãm lưỡng niên – nhưng tôi hầu như không thể gia nhập thị trường thương mại. Dù sao thì video cũng rất khó bán.
Khi ở độ tuổi 30, tôi thấy mình cần phải chứng minh bản thân có thể thực hành lâu dài – bằng mọi cách có thể. Những khi sang độ tuổi 40, suy nghĩ này đã thay đổi. Bây giờ tôi đang tìm kiếm một “con đường thứ ba” – cái có thể chạy song song và ít phụ thuộc vào cả định hướng thương mại cũng như kinh viện, tiến gần hơn với những lựa chọn mang tính xã hội và sinh thái. Tôi tin rằng nghệ thuật không nên chỉ dành cho những người giàu có và nổi tiếng. Tôi vẫn đang thử nghiệm với những suy nghĩ này.
Kết hợp những hiện thực song song
Khi tôi được mời thực hiện bài trò chuyện này, chúng tôi đã quan tâm đến việc khám phá cách kết hợp một không gian thư viện với ý tưởng giáo dục nghệ thuật. HAS gợi ý rằng, vì nhiều khán giả cũng đồng thời là người tạo ra tác phẩm, nói về cách tôi kết hợp hai thực tế có vẻ song song trong hoạt động nghệ thuật của tôi có thể sẽ có ích với họ. Trong phần tiếp theo của bài trò chuyện này, tôi sẽ giới thiệu ba tác phẩm phản ánh sự kết nối các chiều kích khác nhau – lịch sử và đương đại, kỹ thuật số và thủ công, cá nhân và tập thể.
Lover Boys (Những cậu bé tình nhân, 2009)
Đây là tác phẩm tốt nghiệp chương trình cử nhân của tôi tại Đức. Khi đó tôi đang chất vấn nhu cầu tạo thêm hình ảnh mới trong thế giới vốn đã quá tải với chất liệu thị giác. Tôi cố tình tránh việc tạo các hình ảnh “hoàn hảo”, thay vào đó, làm việc với hình ảnh có sẵn để khám phá nền kinh tế hình ảnh hiện tồn.
Trong Lover Boys, tôi đã đặt cạnh nhau hai thế giới xa xôi: các thước phim do fan K-pop quay và tượng điêu khắc La Mã. Tôi đặc biệt tìm hiểu việc Hoàng đế La Mã Hadrian dùng điêu khắc để tưởng niệm chàng trai tình nhân trẻ tuổi đã qua đời của ông ta, Antinous – một hành động bất tử hóa tình yêu. Tôi bị cuốn hút bởi cách người khác tạo ra hình ảnh từ tình cảm mãnh liệt, vì bản thân tôi không thể làm được điều đó. Điều gì đã thúc đẩy một người tạo ra hình tái hiện người họ yêu, đôi khi là ám ảnh?
Chất liệu K-pop tôi sử dụng đến từ các boy band thế hệ thứ hai, trông có vẻ phi giới tính và trẻ trung hơn thế hệ đặc nam tính đầu tiên. K-pop là một nền công nghiệp của việc kiến tạo hình ảnh, nơi những thứ thuộc về bản sắc – giới tính, lịch sử, cảm hứng – thường xuyên biến động.
Tôi kết nối điều này với các mảnh lịch sử văn học, trong đó có tác phẩm của Fernando Pessoa, tác giả của một bài thơ dài về Antinous, và trích dẫn Sappho, một trong những nhà thơ lesbian được biết đến sớm nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, và các tiểu thuyết của người hâm mộ. Những lớp này tạo nên một cuộc đối thoại đan xen giữa các đoạn cổ đại, văn hóa fandom đương đại, và việc tạo hình ảnh như một lao động cảm xúc.
Trinity: Finance-Credo-Spirituality (Tam ngôi: Tài chính-Tín dụng-Tâm linh, 2019)
Năm 2018, một cơn sốt các loại tiền mã hóa như Bitcoin và Ethereum đã xảy ra tại Hàn Quốc. Nhiều người trẻ vay ngân hàng hoặc bán nhà để lấy tiền đầu tư, với hy vọng họ sẽ trở nên giàu có hơn cha mẹ của mình. Sau sự sụp đổ không tránh khỏi của thị trường tiền mã hóa, nhiều người bị phá sản – thậm chí đã tự tử. Một câu meme “Chẳng thể làm gì ngoài cầu nguyện” được lưu truyền rộng rãi. Điều này đã thôi thúc tôi khám phá mối quan hệ giao thoa kỳ lạ giữa tài chính, các hệ thống tín dụng hoặc niềm tin, và tâm linh. Khát vọng tích lũy của cải thặng dư vượt mọi giới hạn để đạt được sự bất tử đồng vọng với một thôi thúc cổ xưa của loài người – giống việc các cộng đồng nguyên thủy đã tấn công những ngôi làng lân cận để tranh giành nguồn lực. Ham muốn “có thêm” dường như không tuổi, chỉ là ngôn ngữ biểu đạt nó thường xuyên được thay đổi mà thôi.

Để chuẩn bị cho triển lãm tại Seoul, tôi đã thiết kế một cấu trúc hình hộp, bên ngoài bao phủ hình vẽ các biểu tượng tôn giáo xen lẫn nhãn hiệu thương mại, trong khi bên trong gợi nhắc về những hang động tiền sử. Các hiện vật in 3D được treo trong phòng, mỗi cái được một nhân vật trong video đang trình chiếu trong phòng sử dụng: một sơ đồ mạng thần kinh nhân tạo, một thiết bị liên lạc di động cho thầy cúng, và một mặt nạ tâm linh hai mặt. Những vật này phản ánh sự gặp gỡ giữa nghi lễ cổ xưa và công nghệ hiện đại.
Tôi đặc biệt thấy kích động bởi cách các công nghệ mới mượn các thuật ngữ cũ – như “mạng thần kinh” – để phóng chiếu mối liên hệ cơ thể quen thuộc lên các công cụ xa lạ. Tác phẩm này tiết lộ những tiếp diễn tiềm tàng đó. Chiếc mặt nạ treo trong hộp kết hợp các huyệt châm cứu với các điểm nhận dạng khuôn mặt – gợi nhắc về sức khỏe, giám sát và thần thoại. Ở mặt sau, các từ khóa về biến đổi công nghệ và cơ thể được viết bằng bút 3D và sau đó được nhuộm màu, giống như một di vật hiện đại. Quá trình làm việc của thôi bao gồm tạo phác thảo tay ban đầu, dựng mô hình 3D, và hợp tác với ba người nữ đại diện cho các nguyên mẫu tôn giáo và lịch sử nghệ thuật. Tôi cũng xem xét các hình thức kiến trúc Hàn Quốc chẳng hạn như các góc cúng bái của thầy cúng, trang phục múa Phật giáo, cũng như các đồ hình từ thánh địa Hồi giáo ở Mecca – nhằm đan xen các công nghệ mới với trí tuệ cổ xưa.
Câu hỏi cốt lõi của tác phẩm là: Từ “tín dụng” được chúng ta dùng trong lĩnh vực tài chính thực sự gợi lên điều gì? Niềm tin rằng một cái gì đó – hoặc ai đó – sẽ trở lại, trả lại, tái sinh? Hệ thống niềm tin đó có mối liên hệ kỳ lạ với tâm linh.
Cơ thể rời tọa độ (2023)
Tác phẩm này ra đời trong thời kỳ đại dịch, sau khi tôi đến thăm một ngôi đền ở Ayutthaya, Thái Lan. Tôi đã thấy một tượng Phật khổng lồ có ngón tay cái được nối với một sợi thừng lớn, sợi thừng này được chia nhỏ và nối với các tượng Phật nhỏ hơn ở bên ngoài ngôi đền. Hình ảnh này bám chặt trong tâm trí tôi: một biểu tượng kết nối những cơ thể rời rạc vào một sự tiếp diễn.
Tôi bắt đầu nhặt nhạnh đá và các vật liệu phân hủy sinh học – đồ ăn, sợi tự nhiên, đồ đi mượn. Đại dịch khiến tôi phải xem xét lại vòng đời của các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt: quá nhiều công sức và chi phí cho các cuộc triển lãm chỉ kéo dài vài tháng, cũng như video art thường đòi hỏi phần cứng đắt tiền và tiêu tốn điện năng. Tôi bắt đầu tự hỏi: liệu mình vẫn có thể tạo ra tác phẩm có ý nghĩa mà không cần đến các nguồn tài trợ bên ngoài? Và hầu như không dựa vào bất kỳ cơ sở hạ tầng cố định nào?
Tác phẩm này được sáng tác cho
MAP 2023 giữa Bremen và Hà Nội, tôi đã tạo ra một khay hương được làm từ rong biển và thiết kế một không gian giống đền thờ, và tạo một video đặt trên sàn nhà để triệt tiêu các hướng cố định – không có trên hay dưới, không có trái hay phải. Tôi muốn tạo ra một thứ vừa thiêng liêng vừa tạm thời, giống như hành động cầu nguyện trong ngôi đền Phật giáo Hàn Quốc, nơi các Phật tử cầu nguyện bằng cách đi quanh một tháp thiêng để cầu cho điều ước của mình thành hiện thực.
Sylbee Kim,
Cơ thể rời tọa độ, 2023, ảnh triển lãm MAP 2023:
Chuyển động Ngoại biên, Dauerwelle, HfK Bremen, ảnh: Ingo Vetter; Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Hà Nội, ảnh: Ngô Trần Phương Uyên.
Các diễn viên tham gia video đều là sinh viên nhập cư tại
Đại học Nghệ thuật Bremen. Tôi đã thiết kế cho họ một trang phục có rất nhiều túi lấy cảm hứng từ nhân vật
bobusang – những người bán hàng rong truyền thống của Hàn Quốc luôn đeo trên lưng một cái gùi lớn, di chuyển từ làng này sang làng khác để mua bán hàng hóa. Lối sống du mục này cũng khiến tôi nhớ đến Con đường Tơ lụa, nơi những nhân vật du hành xuất hiện trên khắp các nền văn hóa – ở mỗi nền văn hóa họ lại được mô tả theo một cách riêng, nhưng đều bắt nguồn từ cùng một ý tưởng về những chuyến đi dài ngày và sự trao đổi.
Các cử chỉ của họ được tôi biên đạo để gợi cảm giác về hành động giải cứu và sinh tồn – chẳng hạn cách người ta bám lấy nhau trong nước. Tôi đã thiết kế những đồ vật thực dụng – như bật lửa – trông giống các hòn đá đánh lửa tiền sử. Tôi cũng dùng tóc của mình, vốn được nuôi dài để đem đi từ thiện, làm mẫu scan 3D để tạo chất liệu trong video – một sự hòa quyện giữa cơ thể, nghi lễ và công nghệ.
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023. Ảnh từ video © Sylbee Kim.
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023, buổi quay mở, Neuhalle, HfK Bremen. Ảnh: Kuo-Wei Lin.
Tôi thực hiện ba lần quay với sinh viên: hai lần trong khuôn viên trường, và một phiên quay mở dành cho công chúng, người tham gia phải “trả” phí vào cửa bằng việc thêm một viên đá – để giúp điều ước của họ thành hiện thực – vào cạnh “ngôi đền” tạm. Những viên đá này, được thu thập ở khu vực xung quanh, trở thành một phần của sắp đặt. Tác phẩm cuối cùng được trưng bày đồng thời ở Bremen và Hà Nội. Mặc dù cuối cùng tôi không thể đến Việt Nam, tác phẩm của tôi đóng vai trò một cánh cổng – kết nối các không gian xuyên thời gian và địa lý.
Trong triển lãm ở Hà Nội, tôi học được một niềm tin của người Việt, họ tin rằng nếu que hương kết thành vòng tròn sau khi cháy hết có nghĩa là điều ước của bạn sẽ thành hiện thực. Tôi đã rất hạnh phúc khi biết được điều này.
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023, ảnh triển lãm MAP 2023: Chuyển động Ngoại diên, Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Hà Nội, ảnh: Ngô Trần Phương Uyên.
Điều hướng trong thế giới nghệ thuật đương đại
Chính trị và nghệ thuật đương đại: Sự chuyển đổi trong khung cảnh nghệ thuật Hàn Quốc
Khi cuộc
luận tội tổng thống Hàn Quốc bắt đầu vào ngày 3 tháng 12 năm 2024 (lúc đó tôi đang ở Đức), tôi đã theo dõi mọi thứ qua mạng. Tôi không thể ở Hàn Quốc trong những tháng qua. Trước khi đến Hà Nội, tôi đã ghé qua Seoul vào đúng tuần cuối cùng của các cuộc biểu tình. Tôi phải xem cuộc luận tội, diễn ra một tuần sau đó, ở Hà Nội, và lại là qua mạng.
Điều khiến tôi ấn tượng nhất là một lực lượng mới đã xuất hiện trong phong trào này: những phụ nữ trẻ ở độ tuổi 20 và 30. Phong trào dân chủ truyền thống của Hàn Quốc thường do nam giới lãnh đạo – những người hiện đã ở độ tuổi 50 và 60, điều này khiến cho các vấn đề về nữ tính thường bị gạt sang một bên. Nhưng lần này, mọi thứ đã khác. Trong khi nhiều thanh niên ở Hàn Quốc đang chuyển sang cực hữu, thì những người phụ nữ trẻ ngày càng trở nên cấp tiến hơn trong chủ nghĩa nữ quyền, tích cực hơn trong chính trị và cuối cùng trở nên có tiếng nói hơn. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc, một phong trào quần chúng chính trị được định hình trực quan bằng hình ảnh những phụ nữ trẻ cầm các que phát quang, vốn dùng để cổ vũ K-pop, để tham gia biểu tình. Khoảnh khắc đó đã định nghĩa lại hình ảnh của chủ thể chính trị.
Trong quãng thời gian đó, tôi và những người bạn nghệ sĩ không thể tập trung vào việc sáng tác. Không ai có tâm trí làm tác phẩm. Chúng tôi chỉ muốn ra ngoài đó, hòa vào đám đông ở quảng trường, đấu tranh cho một mục tiêu chung. Có một sức mạnh cảm xúc bao trùm không gian đó – mọi người tôn vinh di sản đau thương của nền dân chủ Hàn Quốc, từ chối để nó bị xóa bỏ. Rất nhiều biểu hiện đầy tính sáng tạo đã được giới thiệu trong cuộc biểu tình, đối với tôi đó là hình thức nghệ thuật mạnh mẽ nhất ở Hàn Quốc hiện nay, một cảm giác được chia sẻ trong đa phần cộng động nghệ sĩ.
Quay trở lại câu hỏi về xu hướng trong nghệ thuật đương đại Hàn Quốc: bối cảnh đã thay đổi đáng kể trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Hội chợ Frieze Seoul và sự công nhận toàn cầu ngày càng tăng. Có một khoảng cách ngày càng lớn giữa cách nghệ thuật Hàn Quốc được nhìn nhận ở nước ngoài và cách nó tồn tại trong nước. Chủ nghĩa thương mại ngày càng dày đặc hơn. Nhiều nghệ sĩ trẻ hiện đang chạy đua vào thị trường. Nhưng đồng thời, các nghệ sĩ khác cũng trở nên nổi bật hơn với những thực hành độc lập, hoạt động tích cực theo quy trình của riêng họ – trực tiếp đề cập đến các vấn đề chính trị, sinh thái và xã hội. Hệ thống kinh viện thường tụt hậu, nhưng một khi có điều gì đó mới mẻ thu hút được sự chú ý, họ sẽ cố gắng hấp thụ nó vào các khuôn khổ giám tuyển.
Câu hỏi thực sự ở đây là: điều gì sẽ đến tiếp theo? Khi mỗi làn sóng tràn qua, nếu bạn đang cưỡi một con sóng, bạn sẽ làm gì khi nó kết thúc? Vấn đề chính là ở chỗ triết lý của bạn sẽ tiến hóa thế nào qua thời gian – chứ không chỉ là khả năng bạn khiến mình được nhìn thấy.
AI trong nghệ thuật: Chỉ là một công cụ khác?
AI là một công cụ – tất nhiên đây chỉ là một ý tưởng rất thô sơ. Năm ngoái, tôi đã xem một hội nghị của Đảng Xanh ở Đức, nơi các chính trị gia tranh luận về cách quản lý AI. Một nhà văn đã đưa ra một phép ẩn dụ đáng nhớ: AI giống như một chiếc máy giặt. Bạn tải dữ liệu vào đó và chờ xem nó biến đổi như thế nào. Do đó, có lẽ chúng ta thậm chí không nên gọi nó là “trí thông minh”, mà là một chiếc máy giặt, bà nói. Nó có thể thay đổi cách chúng ta sống, giống như trước khi có máy giặt, mọi người vẫn giặt đồ bằng tay ở bờ sông. Tất nhiên, các nhà phát triển AI sẽ không đồng ý với điều này – nhưng đó là một góc nhìn.
Là một nghệ sĩ sử dụng phương tiện mới, tôi luôn làm việc với công nghệ liên tục phát triển – các định dạng video, độ phân giải, công cụ biên tập và ghép ảnh. AI là một phần của chuỗi liên tục đó. Nhưng câu hỏi thực sự là: tại sao bạn sử dụng nó? Bạn muốn làm gì với nó? Ngày nay, AI đi vào hoạt động của chúng ta vì Zeitgeist – tinh thần của thời đại – cho phép điều đó. Và các nghệ sĩ phản ánh tinh thần đó không phải bằng cách mù quáng áp dụng nó, mà bằng cách tạo tiếng nói cho nó. Các công cụ thay đổi, nhưng động lực của chúng ta vẫn là: kể câu chuyện về hiện tại và những khả thể tiếp theo.
Nghệ sĩ là những người biến công cụ thành thứ gì đó khác, có thể là thứ mang tính tiên tri. Có lẽ cũng giống những họa sĩ hang động đầu tiên thời tiền sử là những người có thể phân biệt được những sắc thái tinh tế như sắc tố của đất – họ là những người nhìn thấy thứ mà người khác không thể. Đây là những công cụ của thời đại chúng ta, giống như cách sắc tố là một công cụ trong hang động. Nghệ sĩ là những người cho sắc tố vào máy giặt thay vì chất tẩy rửa. Và nó xuất hiện như một hòa sắc mới mà thế giới chưa từng thấy trước đây.
AI thách thức những ý tưởng cũ về quyền tác giả. Luật bản quyền vẫn đang vật lộn để bắt kịp với nó. Nếu bạn đưa một cảnh do AI tạo ra vào video và cố bán cho một bảo tàng, có thể bạn sẽ phải đối mặt với các vấn đề pháp lý và đạo đức sau này.
Quay trở lại năm 2009, tôi đã thực hiện Lover Boys bằng cách thu thập các clip từ YouTube. Các hình ảnh này được đăng lên, tải xuống và phối lại rất nhiều lần đến nỗi nguồn gốc, bối cảnh và quyền tác giả của chúng không còn rõ ràng. Tôi đã sử dụng sự mơ hồ đó để điều hướng (hoặc lách) bản quyền – mặc dù điều đó cũng có nghĩa là tác phẩm này rất khó bán.
Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phát minh ra các mô hình quyền tác giả mới thay thế cho huyền thoại về “bậc thầy vĩ đại”. Thế giới nghệ thuật có nhiều mong muốn: trở thành người nổi tiếng, một nghệ nhân, một nhà hoạt động. Tôi tin rằng tất cả những mong muốn đó nên được tiếp tục, càng đa dạng và phong phú càng tốt.
Sự quý giá của việc ở bên nhau trong thế giới thực
Trong đại dịch, nhiều người đã chết – và đồng thời, đó là khoảnh khắc hiện sinh đối với hầu hết mọi người trên toàn cầu. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, chúng ta cùng nhau trải qua sự cô lập về mặt vật lý, xuyên lục địa, tất cả cùng một lúc. Đó là một kiểu đoàn kết kỳ lạ – tách biệt nhưng đồng bộ – được truyền đạt qua các màn hình. Chúng ta biết, theo thời gian thực, những gì đồng loại ở Vũ Hán, Seoul, Berlin hoặc Cape Town đang trải qua. Cảm giác nhận thức toàn cầu đồng thời đó đã thay đổi sâu sắc cách tôi nghĩ về bản thân trong mối quan hệ với người khác.
Chúng ta đã cố gắng bù đắp cho sự thiếu vắng những cuộc gặp ngoài đời thực bằng cách chuyển mọi thứ lên mạng – học tập, nhận thức, gặp gỡ. Ở Berlin, chúng tôi bị phong tỏa trong ba tháng liền. Ở Hàn Quốc, cuộc sống hàng ngày vẫn diễn ra bình thường, nhưng có một sự căng thẳng khác đã diễn ra. Trên khắp thế giới, mọi người đều giải quyết tình hình thông qua các nguồn lực và cơ sở hạ tầng mà họ có. Sự tương phản trở nên cực kỳ rõ ràng.
Giống như nhiều người khác, tôi bắt đầu chạy bộ và nướng bánh mì chua. Và duy trì hai việc này đến tận bây giờ. Nhưng đó là lần đầu tiên tôi nhận thức sâu sắc về mối liên hệ trực tiếp của cơ thể mình với môi trường xung quanh – nhịp thở, ánh sáng trên làn da, không khí đi vào phổi. Đó là cảm giác vật lý, không thể phủ nhận, không thể thay thế.
Điều đó khiến tôi nghĩ đến những họa sĩ hang động thời tiền sử. Vào thời điểm đó, sự phân biệt giữa con người – quốc gia, văn hóa, xã hội – vẫn chưa được xác định. Mọi người tụ tập trong các hang động như những cộng đồng, mô tả những cuộc săn tiếp theo và cùng nhau sinh tồn. Những nghi lễ ban đầu này có lẽ là những tác phẩm nghệ thuật tự sự đầu tiên trong lịch sử loài người. Chúng được tạo ra cùng nhau, cho một điều gì đó vượt ra ngoài hiện tại. Trong thời đại văn hóa ảo ngày nay, chúng ta có thể không thể tụ họp trực tiếp theo cùng một cách, nhưng bằng cách nào đó, tinh thần đoàn kết này vẫn tiếp tục, thể hiện trong những “bức tranh hang động” kỹ thuật số mới của chúng ta.
Chính những bài học của đại dịch đã khiến chúng ta hiểu được được lý do tại sao việc ở cùng nhau trong cùng một không gian, về mặt vật lý, giờ đây lại quý giá hơn bao giờ hết. Nó cũng tốn kém nữa. Chúng ta cần một căn phòng thực, cần thời gian. Tôi cần kinh phí cho các chuyến bay và nơi lưu trú. Bạn phải dành thời gian trong lịch trình của mình. Việc tụ họp như thế này là một sự kiện hiếm hoi – vì thế mà rất có giá trị.
Buổi chia sẻ của Sylbee Kim tại Thư viện Heritage Art Space. Ảnh: Cao Thiên Thanh
Có một khát khao mạnh mẽ bất chấp sự khác biệt của mỗi người, chúng ta luôn muốn được kết nối. Chính cơ thể cho phép điều này xảy ra, vì vậy chúng ta trước hết cần duy trì điều đó. Nó khiến chúng ta trở nên khác biệt, đúng vậy – nhưng cũng đưa chúng ta đến gần nhau hơn. Và có lẽ thông qua sự trao đổi đó, chúng ta bắt đầu tìm thấy điểm chung. Nó có thể bắt đầu đơn giản như: cơ thể tôi ở cạnh cơ thể bạn. Chúng ta đang chia sẻ thời gian và không gian. Đó là nền tảng – không chỉ cho xã hội mà còn cho nghệ thuật. Những họa sĩ hang động biết điều này.
Cá nhân tôi cần định hình những không gian như vậy thông qua nghệ thuật, vì trong thực tế hằng ngày của mình, tôi không cảm thấy an toàn. Tôi thường rất khó kết bạn. Thông qua nghệ thuật, tôi tìm được những người khác giống mình. Tôi muốn chứng minh rằng: chúng ta không đơn độc. Vì một không gian như vậy không phải lúc nào cũng được ban tặng trong thế giới thực, nên tôi cố gắng tạo ra nó thông qua tác phẩm của mình – đầu tiên là trong tưởng tượng. Và nếu tác phẩm gây được tiếng vang, có thể ai đó sẽ nói, “Ồ, có lẽ chúng ta có thể làm điều này trong đời thực”. Một sự hiểu biết sâu sắc hơn sẽ phát triển – một cộng đồng sẽ xuất hiện. Đó là những gì tôi đang cố gắng làm: khơi dậy sự khởi đầu cho một khoảng không-thời gian chưa từng tồn tại.
Sylbee Kim
Bài giảng tại Heritage Art Space, Tháng 4/2025
Út Quyên ghi chép, biên tập và chuyển ngữ với sự thông qua của nghệ sĩ
Hiệu đính: Thu Thảo.