Logo trái

The Intersection of New Creative Elements

Giáo dục Nghệ thuật Đương đại tại Hàn Quốc và Đức: Những trải nghiệm song song - Một bài giảng của Sylbee KimShifting Axes: Of Learning and Making Art In-Between Korea and Germany - A Lecture by Sylbee Kim

4/22/2025
Trong bài giảng tại Thư viện Heritage Art Space vào ngày 12 tháng 4, Sylbee Kim chia sẻ hành trình từ khi còn là một sinh viên khoa Lý luận tại Đại học Nghệ thuật Quốc gia Hàn Quốc cho đến lúc trở thành một nghệ sĩ video chuyên nghiệp làm việc giữa Hàn Quốc và Đức. Bài nói chuyện cung cấp những hiểu biết sâu sắc của nghệ sĩ về môi trường giáo dục và nghệ thuật của cả hai quốc gia, đồng thời làm sáng tỏ tư duy và quá trình làm việc của một nghệ sĩ đương đại. Những chia sẻ của Sylbee không chỉ là trải nghiệm của một cá nhân mà còn phản ánh những câu hỏi rộng lớn và cấp bách hơn mà các nghệ sĩ phải đối mặt trong thế giới ngày nay. 
In her lecture at Heritage Art Space Library on April 12th, Sylbee Kim shared her journey from studying Art Theory at the Korea National University of Arts to becoming a practicing video artist working between Korea and Germany. Her talk offered valuable insights into the educational and artistic environments of both countries, while also shedding light on the mindset and working process of a contemporary artist. Sylbee addressed not only her personal experiences but also reflected on broader, urgent questions that artists face in today’s world. 
 

Sylbee-talk-1.png

Sylbee Kim (bên phải) chia sẻ tại Thư viện Heritage Art Space. Ảnh: Cao Thiên Thanh.

 
Giới thiệu: Nghệ thuật giữa Cơ thể và Tâm trí
 
Tôi là một công dân Hàn Quốc, nhưng tôi đã sống ở Berlin trong suốt 20 năm qua. Khi trở về Hàn Quốc, tôi thường cảm thấy mình giống như một du khách – hoặc là hầu hết mọi lần tôi đều về để làm việc – trong khi ở Berlin, tôi vẫn không cảm thấy có sự neo đậu, vì tôi thấy mình không hoàn toàn thuộc về xã hội Đức. Tôi tồn tại ở một khoảng lưng chừng, và cảm giác ở “lưng chừng” này đã định hình cả cá tính cũng như bản sắc nghệ thuật của tôi.
 
Đây là lần đầu tôi đến Việt Nam để tham gia dự án Song of the Wind do giám tuyển Hàn Quốc, Sunyoung Oh, khởi xướng. Chị hiện đang khởi động giai đoạn nghiên cứu của dự án, và tôi đã đến Việt Nam được hai tuần. Tôi sẽ ở đây đến cuối tháng 4 với rất nhiều kế hoạch di chuyển. Một trong những trải nghiệm ý nghĩa nhất của tôi cho đến nay là chuyến đi đến La Pán Tẩn ở Mù Căng Chải – một hành trình đầy ắp sự học hỏi và phản tư. Tôi sẽ rất biết ơn nếu bạn có bất kỳ lời khuyên nào về những nơi tôi nên đi, ai tôi nên gặp, hoặc cộng đồng nào tôi nên tìm hiểu thêm – đặc biệt là những cộng đồng thường bị lãng quên ở Hà Nội.
 
Tình trạng hiện tại của tôi, cả với tư cách cá nhân cũng như một nghệ sĩ thực hành, đồng điệu sâu sắc với tiêu đề của bài thuyết trình hôm nay.
 
Càng dành nhiều thời gian ở Hàn Quốc và Đức, tôi càng thấy mình bị thu hút không chỉ bởi sự khác nhau, mà còn bởi những tương đồng bất ngờ giữa hai phía. Kể từ khi đặt chân vào thế giới nghệ thuật sau khi hoàn thành văn bằng thứ hai của mình tại Đức vào năm 2010, tôi ngày càng quan tâm đến việc tìm kiếm những điểm chung giữa các nền văn hóa và trải nghiệm tưởng như cách biệt. Nghiên cứu của tôi ở Việt Nam phản ánh điều này: Tôi đang khám phá những cộng đồng đa dạng và các tiếng nói thiểu số ở Việt Nam và cố gắng tìm hiểu xem liệu những giá trị hoặc các hy vọng tập thể có thể được khám phá và hình thành một nền tảng cho sự hiểu biết lẫn nhau một cách sâu sắc hơn hay không. 
 
Tôi sẽ mô tả quá trình này như việc thu thập những viên sỏi bên bờ sông – mỗi viên đều có câu chuyện lịch sử riêng – và nhẹ nhàng gom chúng lại với nhau, giống như những cột đá cầu nguyện mà bạn có thể thấy gần các ngôi đền Hàn Quốc. Những cột đá vô danh này được dựng lên từ từng viên đá đơn lẻ, chứa đựng những lời cầu nguyện hoặc ước vọng thầm lặng. Đó chính là ẩn dụ thị giác cho những gì tôi đang cố thực hiện: tập hợp các câu chuyện và trải nghiệm sống cá nhân với hy vọng có thể cùng tạo nên một điều ý nghĩa.
 
Tựa đề của bài giảng này cũng đến từ cách tôi đã di chuyển với nghệ thuật của mình trong suốt nhiều năm. Ban đầu tôi hầu như chỉ đi lại giữa Berlin và Seoul, nhưng qua thời gian, những địa điểm khác dần xuất hiện ở khoảng giữa hai nơi này – chẳng hạn Jordan, nơi tôi đã đến vào năm 2019 với một nhóm nghệ sĩ quốc tế từ Berlin. Chúng tôi hợp tác với các nghệ sĩ địa phương tại Amman, và thật lạ là tôi lại cảm thấy nơi này thân thuộc như thể một điểm dừng chân trên đường về quê. Tôi nhận ra rằng bất chấp những khác biệt về văn hóa, vẫn có những cảnh quan tình cảm chung xuyên biên giới – những thực tế bất khả diễn dịch mà tôi không thể tưởng tượng được nếu không trực tiếp ở tại nơi đó.
 
BodyArtMin2.jpeg
Hình ảnh © Sylbee Kim.
 
Năm ngoái, tôi đã tạo ra một giản đồ để phản ánh điều này. Tôi diễn tả cơ thể vật lý của mình có thể đang ở một nơi, nhưng tâm trí, mong ước, suy nghĩ của tôi lại ở một nơi khác. Tôi ước nghệ thuật của mình có thể trở thành một khoảng thời-không nơi các nơi chốn, con người, và kỷ niệm xa xôi có thể hội tụ. Chẳng hạn, tôi có thể đang đi bộ trên phố Berlin, nhưng lại nghĩ về bạn bè ở Hàn Quốc, và đồng thời nhận thấy cơ thể mình đón nhận những ánh nhìn khác biệt trong không gian vật lý đó. Nơi đó có cái Tôi và cái Bạn, có Ở đây và Lúc này, và Đâu đó và Mai sau. Có thế giới Thật nơi chúng ta cư ngụ, và cả thế giới ảo nơi chúng ta đồng thời đắm chìm – được kết nối thông qua các mạng kỹ thuật số.
 
Tôi cho rằng thực hành nghệ thuật của mình luôn là sự điều hướng giữa những khoảng lưng chừng này và những lớp tồn tại có khả năng giao thoa. Phần mở đầu vừa rồi có lẽ khá trừu tượng, nhưng đó là cách tôi định vị bản thân trước khi chia sẻ những hình ảnh và câu chuyện cụ thể hơn từ những hành trình của mình. 
 
Giữa hai nền Giáo dục Nghệ thuật 
 
Đại học Nghệ thuật Quốc gia Hàn Quốc (K-ARTS), nơi tôi hoàn thành bằng cử nhân đầu tiên, là một dự án do chính phủ thành lập nhằm cung cấp giáo dục nghệ thuật ngang tầm quốc tế, để các sinh viên Hàn Quốc có thể học ở trong nước thay vì cố gắng đi du học nước ngoài. Khi ra đời, trường chỉ có sáu khoa – Kịch, Múa, Âm nhạc, Điện Ảnh và Đa phương tiện, Nghệ thuật Thị giác, và Nghệ thuật Truyền thống Hàn Quốc – và không có ngành khoa học nhân văn. Nó được thiết kế như một giải pháp giáo dục nghệ thuật thay thế cho các khoa nghệ thuật ở những trường đại học ưu tú, với những chương trình học mang tính thử nghiệm hơn. 
 
Thủ tục tuyển sinh của trường rất phá cách. Thay vì chọn thời gian trùng với kỳ tuyển sinh đại học quốc gia thường diễn ra vào tháng 11, nhà trường tự bắt đầu chương trình tuyển sinh vào tháng 8. Học phí của trường thấp hơn các trường tư và còn có học bổng trao đổi dành cho cả sinh viên trong nước cũng như sinh viên quốc tế. Tôi là sinh viên khóa thứ ba của trường, khi tôi nhập học cơ sở sở vật chất của trường vẫn còn chưa hoàn thiện, không gian triển lãm rất hạn chế, khoa nghệ thuật thị giác nằm ở tòa nhà trước khi là trụ sở của cơ quan an ninh nơi vẫn còn lưu lại rất nhiều thiết bị kỳ lạ như hệ thống radar, và các phòng trước khi dùng để điều tra, thậm chí là nơi tra tấn. Rất nhiều những góc nhỏ bị lãng quên ấy được sinh viên chúng tôi cải tạo và biến thành không gian làm tác phẩm và triển lãm. 
 
Khi tôi vào năm cuối, trường vốn định chia triển lãm tốt nghiệp của chúng tôi thành ba nhóm trưng bày ở những phòng triển lãm nhỏ khác nhau ngoài khuôn viên, và chúng tôi không thích điều đó. Chúng tôi đã tự mình đứng ra tổ chức triển lãm tại sân bóng rổ trong trường. Chúng tôi tự dựng các bức tường, thiết kế các gian triển lãm và biến đổi toàn bộ sân bóng thành nhà triển lãm. Tinh thần nổi loạn và sáng tạo đó đến nay đã trở thành truyền thống cho sinh viên các năm tiếp theo. Tôi tin rằng đây mới chính là sự hỗ trợ cần thiết cho sinh viên nghệ thuật – cho phép họ có không gian và thời gian để xây dựng những thứ mới từ nguồn lực mà nhà trường vốn có. Đối với tôi, trường nghệ thuật chính là không gian an toàn nhất dành cho các thử nghiệm, nơi không có kiểm duyệt và phê bình mang tính xây dựng là cốt lõi của giáo dục. Đôi khi lịch sử bắt đầu bằng việc xây dựng cái mới từ những gì chúng có trong tay.
 
Học tập từ di sản: Từ Nghệ thuật Nhân dân đến Nghệ thuật Đương đại
 
Hình ảnh đầu tiên là về phong trào Nghệ thuật nhân dân (Minjung Art movement) diễn ra vào thập niên đầy biến động về 1980 tại Hàn Quốc trong không khí căng thẳng giữa chế độ quân sự độc tài và các hoạt động đấu tranh chính trị. Các nghệ sĩ đã sử dụng ngôn ngữ dũng cảm, đầy khiêu khích – thường là các băng rôn trưng bày ở các không gian công cộng – để thu hút công chúng tham gia biểu tình phản đối chính phủ độc tài. Rất nhiều nghệ sĩ trong số đó, hầu hết là nam, sau này trở thành những nhân vật quan trọng của giới nghệ thuật và văn hóa chính trị trong thời kỳ dân chủ hóa Hàn Quốc vào thập niên 1990 và 2000. Theo thời gian, những tác phẩm cấp tiến của họ được kinh viện hóa, lưu trữ, lịch sử hóa và thương mại hóa.
 
Một trong những giảng viên đầu tiên của tôi, thầy Ahn Kyuchul, thuộc về thế hệ cầu nối giữa nghệ thuật chính trị và cái chúng ta gọi là nghệ thuật đương đại ngày nay. Tác phẩm của ông vẫn giữ lại nhiều tính phê phán nhưng về hình thức thì phức tạp và  trung tính hơn.
 
Tôi bắt đầu học tại K-ARTS vào năm 2001, thực chất là ở khoa Lý Luận. Chương trình học của năm nhất bao gồm các lớp kiến thức nền về nhiều môn thực hành như vẽ, điêu khắc, và trình diễn, nhằm trang bị cho những sinh viên Lý luận như tôi hiểu biết về cách nghệ sĩ làm việc. Tôi bị việc làm tác phẩm hấp dẫn tới mức đến năm thứ hai đã quyết định đăng ký học thêm một chuyên ngành kép ở khoa Nghệ thuật Thị giác.
 
Lớp của thầy Ahn rất nổi tiếng nên khá khó để đăng ký được một suất học. Tôi là sinh viên lý luận duy nhất trong lớp, các bạn khác khi thấy tôi ở đó thì ai cũng như muốn hỏi: tại sao mày ở đây! Thầy Ahn nói với mọi người: “Chấp nhận bạn ấy vào lớp chính là làm giàu thêm tri thức cho cả chúng ta. Chúng ta cần ‘bao dung’ với bạn ấy.’ Đó chính là cánh cửa để tôi chính thức bước vào thế giới thực hành nghệ thuật đương đại. 
 
Thầy Ahn từng học ở Stuttgart, hồi đó rất nhiều nghệ sĩ có ảnh hưởng của Hàn Quốc mà tôi thích đều có liên quan tới Đức. Khi tôi bước vào năm thứ thư, thầy Ahn tạm nghỉ dạy một năm, và lớp chúng tôi được thầy Gimhongsok tiếp quản. Thầy Gimhongsok thuộc về thế hệ nghệ sĩ ý niệm trẻ hơn. Dự án hợp tác của thầy với hai nghệ sĩ Tsuyoshi Ozawa (Nhật Bản) và Chen Shaoxiong (Trung Quốc) mang tên Xijing Men (Những gã trai Tây Kinh) bao gồm những trình diễn châm biếm lấy mô hình các trò chơi Olympic, họ tạo ra một thủ đô giả tưởng “Xijing” (Tây Kinh) như một sự phê phán hài hước về nam quyền và bản sắc dân tộc chủ nghĩa Châu Á.
 
Thầy Gimhongsok từng học ở Düsseldorf, và tôi tự hỏi: tại sao các nghệ sĩ tuyệt vời và cấp tiến như thế đều có liên quan tới Đức? Sự tò mò ấy đã mở đường cho tôi tiếp tục theo đuổi chương trình sau đại học ở Đức. Bước vào năm thứ ba, tôi đã bắt đầu thực hành video, và thấy chất liệu này vô cùng mang tính khai phóng – đặc biệt là với một phụ nữ trẻ đang bị choáng ngợp trước thế giới nghệ thuật studio truyền thống mang tính vật lý và khắt khe như tôi, video đem đến cho tôi sự tự do.
 
Học tập tại Đức: Góc nhìn khác biệt từ các nghệ sĩ nữ
 
Mãi cho đến khi chuẩn bị nội dung cho bài thuyết trình này tôi mới nhận ra một điều rằng: tất cả các giáo sư nghệ thuật của tôi ở Hàn Quốc đều là nam còn ở Đức đều là nữ. Điều này có lẽ phản ánh những tình trạng khác nhau về cân bằng giới trong môi trường học thuật. Rõ ràng là Đức sớm có ý thức về việc phải có giáo sư nữ trong môi trường nghệ thuật, trong khi Hàn Quốc vẫn còn đang phát triển nhận thức này.
 
Giảng viên đầu tiên của tôi tại Đại học Nghệ thuật Berlin (UdK Berlin) là Maria Vedder, một nghệ sĩ video hoạt động từ thập niên 1970. Tác phẩm của bà mang tính ý niệm nhưng rất giàu hình ảnh, khám phá siêu-bản chất của video như một ngôn ngữ. Một trong những tác phẩm quan trọng của bà, The Heartbeat of the Anubis (1988), là một cuộc khám phá đa tầng đầy tính điện ảnh.
 
Khoa Video Art nằm trong Trường Thiết Kế, và nhiều lúc việc học rất mang tính kỹ thuật. Vì thế tôi thường sang học bên Trường Mỹ thuật, nơi tôi đăng ký lớp của cô Christiane Möbus, một nhà điêu khắc với những tác phẩm sử dụng chất liệu phi truyền thống nhằm phê bình cuộc sống đương đại một cách hài hước. Tôi thấy cô Möbus có tinh thần khá nổi loạn, với những cú ngoặt trong việc sử dụng chất liệu tác phẩm đã thách thức một cách tinh tế các thông lệ thống trị về tự sự và về giới. Ngày nay, những nghệ sĩ từng có vẻ rất cấp tiến như cô, một lần nữa, lại được vinh danh trong những bộ sưu tập và triển lãm hồi cố chính thống. 
 
Khi tôi bước vào năm cuối của chương trình cử nhân, Hito Steyerl đến dạy tại UdK. Thực hành của bà nằm ở ranh giới phát triển từ một nhà làm phim tài liệu và triết gia dần trở thành một trong những nghệ sĩ video số có ảnh hưởng nhất với cách tiếp cận ngôn ngữ kỹ thuật số mới vô cùng mạnh mẽ. Ý tưởng về “hình ảnh chất lượng thấp” của bà – độ phân giải thấp, sao chép, các mảnh hình ảnh trôi nổi trên mạng – vô cùng có tính khai phóng đối với tôi. Nó khẳng định rằng sản xuất hình ảnh nguyên bản không nhất thiết là điều kiện tiên quyết cho một tác phẩm video. Kết cấu, sự bóp méo, và tính siêu phê phán có thể là những chất liệu vô cùng quý giá. Tác phẩm của bà dạy tôi rằng mọi thử nghiệm đều có giá trị, nếu bề mặt và tính vật chất của tác phẩm video nhất quán với ý tưởng và cấu trúc. Hiện nay, Steyerl được biết đến với những thử nghiệm về chất liệu số, bao gồm cả AI và việc tạo hình ảnh suy tưởng. 
 
Được học nghệ thuật quả thực là một đặc quyền – ở mọi nơi trên thế giới. Nhưng sau khi tốt nghiệp, tôi thấy mình bị mất kết nối. Học nghệ thuật là một chuyện, gia nhập vào giới nghệ thuật lại là một chuyện hoàn toàn khác. 
 
Mười lăm năm trước, cả Berlin và Seoul đều có các không gian nghệ thuật do nghệ sĩ điều hành rất năng động. Nhưng chúng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi, cùng lắm là vài ba năm. Tại Berlin, nhiều không gian như vậy nhận được tài trợ – thường là của các hãng bia địa phương – cho các buổi khai mạc triển lãm. Nhưng họ thường phải bán bia này trong sự kiện để trang trải cho chi phí sản xuất chương trình. Đến nay, những không gian như vậy hầu hết đã đóng cửa. Berlin ngày càng trở nên sang chảnh, và rất nhiều không gian “nhếch nhác” của nghệ sĩ trước kia đã biến mất.
 
Tình hình ở Seoul có vẻ còn cực đoan hơn. Để xây dựng cộng đồng, các nghệ sĩ trẻ thường thuê không gian và cho nghệ sĩ khác thuê lại với giá cao. Mỗi năm các tổ chức như Hội đồng Nghệ thuật Hàn QuốcQuỹ Văn hóa Nghệ thuật Seoul công bố danh sách các triển lãm được tài trợ. Ngay khi kết quả được xuất bản vào tháng 1, các nghệ sĩ giành được quỹ lại phải nộp hồ sơ và hoàn thiện thủ tục đảm bảo tiếp tục thuê không gian. Tôi hiểu lý do cho sự phát triển này của Seoul, một thành phố siêu tập trung tư bản, nhưng tôi vẫn không cho rằng đây là một mô hình bền vững. 
 
Triển lãm nghệ thuật ngày càng trở nên khó khăn. Vì thế, các nghệ sĩ trẻ thường phải tập trung vào làm sự kiện, workshop và tọa đàm thay vì cứ bám lấy mô hình triển lãm truyền thống. Với sự xuất hiện của Hội chợ Nghệ thuật Frieze Seoul trong vài năm trở lại đây, nhiều nghệ sĩ có mong muốn trực tiếp gia nhập thị trường nghệ thuật ngay sau khi tốt nghiệp. Nhưng mô hình này có tính cạnh tranh rất cao. Tôi là người may mắn vì đã xây dựng sự nghiệp của mình qua các kênh kinh viện – không gian ngoài, bảo tàng, và triển lãm lưỡng niên – nhưng tôi hầu như không thể gia nhập thị trường thương mại. Dù sao thì video cũng rất khó bán.
 
Khi ở độ tuổi 30, tôi thấy mình cần phải chứng minh bản thân có thể thực hành lâu dài – bằng mọi cách có thể. Những khi sang độ tuổi 40, suy nghĩ này đã thay đổi. Bây giờ tôi đang tìm kiếm một “con đường thứ ba” – cái có thể chạy song song và ít phụ thuộc vào cả định hướng thương mại cũng như kinh viện, tiến gần hơn với những lựa chọn mang tính xã hội và sinh thái. Tôi tin rằng nghệ thuật không nên chỉ dành cho những người giàu có và nổi tiếng. Tôi vẫn đang thử nghiệm với những suy nghĩ này.
 
Kết hợp những hiện thực song song 
 
Khi tôi được mời thực hiện bài trò chuyện này, chúng tôi đã quan tâm đến việc khám phá cách kết hợp một không gian thư viện với ý tưởng giáo dục nghệ thuật. HAS gợi ý rằng, vì nhiều khán giả cũng đồng thời là người tạo ra tác phẩm, nói về cách tôi kết hợp hai thực tế có vẻ song song trong hoạt động nghệ thuật của tôi có thể sẽ có ích với họ. Trong phần tiếp theo của bài trò chuyện này, tôi sẽ giới thiệu ba tác phẩm phản ánh sự kết nối các chiều kích khác nhau – lịch sử và đương đại, kỹ thuật số và thủ công, cá nhân và tập thể. 
 
Lover Boys (Những cậu bé tình nhân, 2009)
 
Đây là tác phẩm tốt nghiệp  chương trình cử nhân của tôi tại Đức. Khi đó tôi đang chất vấn nhu cầu tạo thêm hình ảnh mới trong thế giới vốn đã quá tải với chất liệu thị giác. Tôi cố tình tránh việc tạo các hình ảnh “hoàn hảo”, thay vào đó, làm việc với hình ảnh có sẵn để khám phá nền kinh tế hình ảnh hiện tồn.
 
Lover Boys-Sylbee.png
Sylbee Kim, Lover Boys, 2009. Ảnh từ video © Sylbee Kim. (Xem trích đoạn trên Vimeo)
 
Trong Lover Boys, tôi đã đặt cạnh nhau hai thế giới xa xôi: các thước phim do fan K-pop quay và tượng điêu khắc La Mã. Tôi đặc biệt tìm hiểu việc Hoàng đế La Mã Hadrian dùng điêu khắc để tưởng niệm chàng trai tình nhân trẻ tuổi đã qua đời của ông ta, Antinous – một hành động bất tử hóa tình yêu. Tôi bị cuốn hút bởi cách người khác tạo ra hình ảnh từ tình cảm mãnh liệt, vì bản thân tôi không thể làm được điều đó. Điều gì đã thúc đẩy một người tạo ra hình tái hiện người họ yêu, đôi khi là ám ảnh?
 
Chất liệu K-pop tôi sử dụng đến từ các boy band thế hệ thứ hai, trông có vẻ phi giới tính và trẻ trung hơn thế hệ đặc nam tính đầu tiên. K-pop là một nền công nghiệp của việc kiến tạo hình ảnh, nơi những thứ thuộc về bản sắc – giới tính, lịch sử, cảm hứng – thường xuyên biến động.
 
Tôi kết nối điều này với các mảnh lịch sử văn học, trong đó có tác phẩm của Fernando Pessoa, tác giả của một bài thơ dài về Antinous, và trích dẫn Sappho, một trong những nhà thơ lesbian được biết đến sớm nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, và các tiểu thuyết của người hâm mộ. Những lớp này tạo nên một cuộc đối thoại đan xen giữa các đoạn cổ đại, văn hóa fandom đương đại, và việc tạo hình ảnh như một lao động cảm xúc.  
 
Trinity: Finance-Credo-Spirituality (Tam ngôi: Tài chính-Tín dụng-Tâm linh, 2019)
 
Mười năm sau, tôi được mời tham dự một triển lãm ở Bảo tàng nghệ thuật Hiện đại và Đương đại Quôc gia tại Seoul vào năm 2019, tập trung vào chủ đề tiền mã hóa cryptocurrency và công nghệ mới như những điều kiện hiện sinh.
 
Năm 2018, một cơn sốt các loại tiền mã hóa như Bitcoin và Ethereum đã xảy ra tại Hàn Quốc. Nhiều người trẻ vay ngân hàng hoặc bán nhà để lấy tiền đầu tư, với hy vọng họ sẽ trở nên giàu có hơn cha mẹ của mình. Sau sự sụp đổ không tránh khỏi của thị trường tiền mã hóa, nhiều người bị phá sản – thậm chí đã tự tử. Một câu meme “Chẳng thể làm gì ngoài cầu nguyện” được lưu truyền rộng rãi. Điều này đã thôi thúc tôi khám phá mối quan hệ giao thoa kỳ lạ giữa tài chính, các hệ thống tín dụng hoặc niềm tin, và tâm linh. Khát vọng tích lũy của cải thặng dư vượt mọi giới hạn để đạt được sự bất tử đồng vọng với một thôi thúc cổ xưa của loài người – giống việc các cộng đồng nguyên thủy đã tấn công những ngôi làng lân cận để tranh giành nguồn lực. Ham muốn “có thêm” dường như không tuổi, chỉ là ngôn ngữ biểu đạt nó thường xuyên được thay đổi mà thôi.
 
Trinity-Sylbee.png
Sylbee Kim, Trinity: Finance-Credo-Spirituality, 2019. Ảnh từ video © Sylbee Kim. (Xem Phim tư liệu: Trinity: Finance-Credo-Spirituality trên Vimeo)
 
Để chuẩn bị cho triển lãm tại Seoul, tôi đã thiết kế một cấu trúc hình hộp, bên ngoài bao phủ hình vẽ các biểu tượng tôn giáo xen lẫn nhãn hiệu thương mại, trong khi bên trong gợi nhắc về những hang động tiền sử. Các hiện vật in 3D được treo trong phòng, mỗi cái được một nhân vật trong video đang trình chiếu trong phòng sử dụng: một sơ đồ mạng thần kinh nhân tạo, một thiết bị liên lạc di động cho thầy cúng, và một mặt nạ tâm linh hai mặt. Những vật này phản ánh sự gặp gỡ giữa nghi lễ cổ xưa và công nghệ hiện đại.
 
Tôi đặc biệt thấy kích động bởi cách các công nghệ mới mượn các thuật ngữ cũ – như “mạng thần kinh” – để phóng chiếu mối liên hệ cơ thể quen thuộc lên các công cụ xa lạ. Tác phẩm này tiết lộ những tiếp diễn tiềm tàng đó. Chiếc mặt nạ treo trong hộp kết hợp các huyệt châm cứu với các điểm nhận dạng khuôn mặt – gợi nhắc về sức khỏe, giám sát và thần thoại. Ở mặt sau, các từ khóa về biến đổi công nghệ và cơ thể được viết bằng bút 3D và sau đó được nhuộm màu, giống như một di vật hiện đại. Quá trình làm việc của thôi bao gồm tạo phác thảo tay ban đầu, dựng mô hình 3D, và hợp tác với ba người nữ đại diện cho các nguyên mẫu tôn giáo và lịch sử nghệ thuật. Tôi cũng xem xét các hình thức kiến ​​trúc Hàn Quốc chẳng hạn như các góc cúng bái của thầy cúng, trang phục múa Phật giáo, cũng như các đồ hình từ thánh địa Hồi giáo ở Mecca – nhằm đan xen các công nghệ mới với trí tuệ cổ xưa.
 
Câu hỏi cốt lõi của tác phẩm là: Từ “tín dụng” được chúng ta dùng trong lĩnh vực tài chính thực sự gợi lên điều gì? Niềm tin rằng một cái gì đó – hoặc ai đó – sẽ trở lại, trả lại, tái sinh? Hệ thống niềm tin đó có mối liên hệ kỳ lạ với tâm linh.
 
Cơ thể rời tọa độ (2023)
 
Tác phẩm này ra đời trong thời kỳ đại dịch, sau khi tôi đến thăm một ngôi đền ở Ayutthaya, Thái Lan. Tôi đã thấy một tượng Phật khổng lồ có ngón tay cái được nối với một sợi thừng lớn, sợi thừng này được chia nhỏ và nối với các tượng Phật nhỏ hơn ở bên ngoài ngôi đền. Hình ảnh này bám chặt trong tâm trí tôi: một biểu tượng kết nối những cơ thể rời rạc vào một sự tiếp diễn. 
 
Tôi bắt đầu nhặt nhạnh đá và các vật liệu phân hủy sinh học – đồ ăn, sợi tự nhiên, đồ đi mượn. Đại dịch khiến tôi phải xem xét lại vòng đời của các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt: quá nhiều công sức và chi phí cho các cuộc triển lãm chỉ kéo dài vài tháng, cũng như video art thường đòi hỏi phần cứng đắt tiền và tiêu tốn điện năng. Tôi bắt đầu tự hỏi: liệu mình vẫn có thể tạo ra tác phẩm có ý nghĩa mà không cần đến các nguồn tài trợ bên ngoài? Và hầu như không dựa vào bất kỳ cơ sở hạ tầng cố định nào?
 
Tác phẩm này được sáng tác cho MAP 2023 giữa Bremen và Hà Nội, tôi đã tạo ra một khay hương được làm từ rong biển và thiết kế một không gian giống đền thờ, và tạo một video đặt trên sàn nhà để triệt tiêu các hướng cố định – không có trên hay dưới, không có trái hay phải. Tôi muốn tạo ra một thứ vừa thiêng liêng vừa tạm thời, giống như hành động cầu nguyện trong ngôi đền Phật giáo Hàn Quốc, nơi các Phật tử cầu nguyện bằng cách đi quanh một tháp thiêng để cầu cho điều ước của mình thành hiện thực.
 
Bodies off Coordinates-Bremen-Sylbee.JPG
 
Bodies off Coordinates-Hanoi-Sylbee.jpg
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023, ảnh triển lãm MAP 2023: Chuyển động Ngoại biên, Dauerwelle, HfK Bremen, ảnh: Ingo Vetter; Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Hà Nội, ảnh: Ngô Trần Phương Uyên.
 
Các diễn viên tham gia video đều là sinh viên nhập cư tại Đại học Nghệ thuật Bremen. Tôi đã thiết kế cho họ một trang phục có rất nhiều túi lấy cảm hứng từ nhân vật bobusang – những người bán hàng rong truyền thống của Hàn Quốc luôn đeo trên lưng một cái gùi lớn, di chuyển từ làng này sang làng khác để mua bán hàng hóa. Lối sống du mục này cũng khiến tôi nhớ đến Con đường Tơ lụa, nơi những nhân vật du hành xuất hiện trên khắp các nền văn hóa – ở mỗi nền văn hóa họ lại được mô tả theo một cách riêng, nhưng đều bắt nguồn từ cùng một ý tưởng về những chuyến đi dài ngày và sự trao đổi.
 
Các cử chỉ của họ được tôi biên đạo để gợi cảm giác về hành động giải cứu và sinh tồn – chẳng hạn cách người ta bám lấy nhau trong nước. Tôi đã thiết kế những đồ vật thực dụng – như bật lửa –  trông giống các hòn đá đánh lửa tiền sử. Tôi cũng dùng tóc của mình, vốn được nuôi dài để đem đi từ thiện, làm mẫu scan 3D để tạo chất liệu trong video – một sự hòa quyện giữa cơ thể, nghi lễ và công nghệ. 
 
Bodies off Coordinates-1-Sylbee.png
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023. Ảnh từ video © Sylbee Kim.
 
Bodies off Coordinates-2-Sylbee.jpg
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023, buổi quay mở, Neuhalle, HfK Bremen. Ảnh: Kuo-Wei Lin.
 
Tôi thực hiện ba lần quay với sinh viên: hai lần trong khuôn viên trường, và một phiên quay mở dành cho công chúng, người tham gia phải “trả” phí vào cửa bằng việc thêm một viên đá – để giúp điều ước của họ thành hiện thực – vào cạnh “ngôi đền” tạm. Những viên đá này, được thu thập ở khu vực xung quanh, trở thành một phần của sắp đặt. Tác phẩm cuối cùng được trưng bày đồng thời ở Bremen và Hà Nội. Mặc dù cuối cùng tôi không thể đến Việt Nam, tác phẩm của tôi đóng vai trò một cánh cổng – kết nối các không gian xuyên thời gian và địa lý.
 
Trong triển lãm ở Hà Nội, tôi học được một niềm tin của người Việt, họ tin rằng nếu que hương kết thành vòng tròn sau khi cháy hết có nghĩa là điều ước của bạn sẽ thành hiện thực. Tôi đã rất hạnh phúc khi biết được điều này.
 
Bodies off Coordinates-3Sylbee.jpg
Sylbee Kim, Cơ thể rời tọa độ, 2023, ảnh triển lãm MAP 2023: Chuyển động Ngoại diên, Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Hà Nội, ảnh: Ngô Trần Phương Uyên.
 
Điều hướng trong thế giới nghệ thuật đương đại
 
Chính trị và nghệ thuật đương đại: Sự chuyển đổi trong khung cảnh nghệ thuật Hàn Quốc
 
Khi cuộc luận tội tổng thống Hàn Quốc bắt đầu vào ngày 3 tháng 12 năm 2024 (lúc đó tôi đang ở Đức), tôi đã theo dõi mọi thứ qua mạng. Tôi không thể ở Hàn Quốc trong những tháng qua. Trước khi đến Hà Nội, tôi đã ghé qua Seoul vào đúng tuần cuối cùng của các cuộc biểu tình. Tôi phải xem cuộc luận tội, diễn ra một tuần sau đó, ở Hà Nội, và lại là qua mạng.
 
Điều khiến tôi ấn tượng nhất là một lực lượng mới đã xuất hiện trong phong trào này: những phụ nữ trẻ ở độ tuổi 20 và 30. Phong trào dân chủ truyền thống của Hàn Quốc thường do nam giới lãnh đạo – những người hiện đã ở độ tuổi 50 và 60, điều này khiến cho các vấn đề về nữ tính thường bị gạt sang một bên. Nhưng lần này, mọi thứ đã khác. Trong khi nhiều thanh niên ở Hàn Quốc đang chuyển sang cực hữu, thì những người phụ nữ trẻ ngày càng trở nên cấp tiến hơn trong chủ nghĩa nữ quyền, tích cực hơn trong chính trị và cuối cùng trở nên có tiếng nói hơn. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc, một phong trào quần chúng chính trị được định hình trực quan bằng hình ảnh những phụ nữ trẻ cầm các que phát quang, vốn dùng để cổ vũ K-pop, để tham gia biểu tình. Khoảnh khắc đó đã định nghĩa lại hình ảnh của chủ thể chính trị.
 
Trong quãng thời gian đó, tôi và những người bạn nghệ sĩ không thể tập trung vào việc sáng tác. Không ai có tâm trí làm tác phẩm. Chúng tôi chỉ muốn ra ngoài đó, hòa vào đám đông ở quảng trường, đấu tranh cho một mục tiêu chung. Có một sức mạnh cảm xúc bao trùm không gian đó – mọi người tôn vinh di sản đau thương của nền dân chủ Hàn Quốc, từ chối để nó bị xóa bỏ. Rất nhiều biểu hiện đầy tính sáng tạo đã được giới thiệu trong cuộc biểu tình, đối với tôi đó là hình thức nghệ thuật mạnh mẽ nhất ở Hàn Quốc hiện nay, một cảm giác được chia sẻ trong đa phần cộng động nghệ sĩ.
 
Quay trở lại câu hỏi về xu hướng trong nghệ thuật đương đại Hàn Quốc: bối cảnh đã thay đổi đáng kể trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Hội chợ Frieze Seoul và sự công nhận toàn cầu ngày càng tăng. Có một khoảng cách ngày càng lớn giữa cách nghệ thuật Hàn Quốc được nhìn nhận ở nước ngoài và cách nó tồn tại trong nước. Chủ nghĩa thương mại ngày càng dày đặc hơn. Nhiều nghệ sĩ trẻ hiện đang chạy đua vào thị trường. Nhưng đồng thời, các nghệ sĩ khác cũng trở nên nổi bật hơn với những thực hành độc lập, hoạt động tích cực theo quy trình của riêng họ – trực tiếp đề cập đến các vấn đề chính trị, sinh thái và xã hội. Hệ thống kinh viện thường tụt hậu, nhưng một khi có điều gì đó mới mẻ thu hút được sự chú ý, họ sẽ cố gắng hấp thụ nó vào các khuôn khổ giám tuyển.
 
Câu hỏi thực sự ở đây là: điều gì sẽ đến tiếp theo? Khi mỗi làn sóng tràn qua, nếu bạn đang cưỡi một con sóng, bạn sẽ làm gì khi nó kết thúc? Vấn đề chính là ở chỗ triết lý của bạn sẽ tiến hóa thế nào qua thời gian – chứ không chỉ là khả năng bạn khiến mình được nhìn thấy.
 
AI trong nghệ thuật: Chỉ là một công cụ khác?
 
AI là một công cụ – tất nhiên đây chỉ là một ý tưởng rất thô sơ. Năm ngoái, tôi đã xem một hội nghị của Đảng Xanh ở Đức, nơi các chính trị gia tranh luận về cách quản lý AI. Một nhà văn đã đưa ra một phép ẩn dụ đáng nhớ: AI giống như một chiếc máy giặt. Bạn tải dữ liệu vào đó và chờ xem nó biến đổi như thế nào. Do đó, có lẽ chúng ta thậm chí không nên gọi nó là “trí thông minh”, mà là một chiếc máy giặt, bà nói. Nó có thể thay đổi cách chúng ta sống, giống như trước khi có máy giặt, mọi người vẫn giặt đồ bằng tay ở bờ sông. Tất nhiên, các nhà phát triển AI sẽ không đồng ý với điều này – nhưng đó là một góc nhìn.
 
Là một nghệ sĩ sử dụng phương tiện mới, tôi luôn làm việc với công nghệ liên tục phát triển – các định dạng video, độ phân giải, công cụ biên tập và ghép ảnh. AI là một phần của chuỗi liên tục đó. Nhưng câu hỏi thực sự là: tại sao bạn sử dụng nó? Bạn muốn làm gì với nó? Ngày nay, AI đi vào hoạt động của chúng ta vì Zeitgeist – tinh thần của thời đại – cho phép điều đó. Và các nghệ sĩ phản ánh tinh thần đó không phải bằng cách mù quáng áp dụng nó, mà bằng cách tạo tiếng nói cho nó. Các công cụ thay đổi, nhưng động lực của chúng ta vẫn là: kể câu chuyện về hiện tại và những khả thể tiếp theo.
 
Nghệ sĩ là những người biến công cụ thành thứ gì đó khác, có thể là thứ mang tính tiên tri. Có lẽ cũng giống những họa sĩ hang động đầu tiên thời tiền sử là những người có thể phân biệt được những sắc thái tinh tế như sắc tố của đất – họ là những người nhìn thấy thứ mà người khác không thể. Đây là những công cụ của thời đại chúng ta, giống như cách sắc tố là một công cụ trong hang động. Nghệ sĩ là những người cho sắc tố vào máy giặt thay vì chất tẩy rửa. Và nó xuất hiện như một hòa sắc mới mà thế giới chưa từng thấy trước đây.
 
AI thách thức những ý tưởng cũ về quyền tác giả. Luật bản quyền vẫn đang vật lộn để bắt kịp với nó. Nếu bạn đưa một cảnh do AI tạo ra vào video và cố bán cho một bảo tàng, có thể bạn sẽ phải đối mặt với các vấn đề pháp lý và đạo đức sau này.
 
Quay trở lại năm 2009, tôi đã thực hiện Lover Boys bằng cách thu thập các clip từ YouTube. Các hình ảnh này được đăng lên, tải xuống và phối lại rất nhiều lần đến nỗi nguồn gốc, bối cảnh và quyền tác giả của chúng không còn rõ ràng. Tôi đã sử dụng sự mơ hồ đó để điều hướng (hoặc lách) bản quyền – mặc dù điều đó cũng có nghĩa là tác phẩm này rất khó bán.
 
Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phát minh ra các mô hình quyền tác giả mới thay thế cho huyền thoại về “bậc thầy vĩ đại”. Thế giới nghệ thuật có nhiều mong muốn: trở thành người nổi tiếng, một nghệ nhân, một nhà hoạt động. Tôi tin rằng tất cả những mong muốn đó nên được tiếp tục, càng đa dạng và phong phú càng tốt.
 
Sự quý giá của việc ở bên nhau trong thế giới thực
 
Trong đại dịch, nhiều người đã chết – và đồng thời, đó là khoảnh khắc hiện sinh đối với hầu hết mọi người trên toàn cầu. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, chúng ta cùng nhau trải qua sự cô lập về mặt vật lý, xuyên lục địa, tất cả cùng một lúc. Đó là một kiểu đoàn kết kỳ lạ – tách biệt nhưng đồng bộ – được truyền đạt qua các màn hình. Chúng ta biết, theo thời gian thực, những gì đồng loại ở Vũ Hán, Seoul, Berlin hoặc Cape Town đang trải qua. Cảm giác nhận thức toàn cầu đồng thời đó đã thay đổi sâu sắc cách tôi nghĩ về bản thân trong mối quan hệ với người khác.
 
Chúng ta đã cố gắng bù đắp cho sự thiếu vắng những cuộc gặp ngoài đời thực bằng cách chuyển mọi thứ lên mạng – học tập, nhận thức, gặp gỡ. Ở Berlin, chúng tôi bị phong tỏa trong ba tháng liền. Ở Hàn Quốc, cuộc sống hàng ngày vẫn diễn ra bình thường, nhưng có một sự căng thẳng khác đã diễn ra. Trên khắp thế giới, mọi người đều giải quyết tình hình thông qua các nguồn lực và cơ sở hạ tầng mà họ có. Sự tương phản trở nên cực kỳ rõ ràng.
 
Giống như nhiều người khác, tôi bắt đầu chạy bộ và nướng bánh mì chua. Và duy trì hai việc này đến tận bây giờ. Nhưng đó là lần đầu tiên tôi nhận thức sâu sắc về mối liên hệ trực tiếp của cơ thể mình với môi trường xung quanh – nhịp thở, ánh sáng trên làn da, không khí đi vào phổi. Đó là cảm giác vật lý, không thể phủ nhận, không thể thay thế.
 
Điều đó khiến tôi nghĩ đến những họa sĩ hang động thời tiền sử. Vào thời điểm đó, sự phân biệt giữa con người – quốc gia, văn hóa, xã hội – vẫn chưa được xác định. Mọi người tụ tập trong các hang động như những cộng đồng, mô tả những cuộc săn tiếp theo và cùng nhau sinh tồn. Những nghi lễ ban đầu này có lẽ là những tác phẩm nghệ thuật tự sự đầu tiên trong lịch sử loài người. Chúng được tạo ra cùng nhau, cho một điều gì đó vượt ra ngoài hiện tại. Trong thời đại văn hóa ảo ngày nay, chúng ta có thể không thể tụ họp trực tiếp theo cùng một cách, nhưng bằng cách nào đó, tinh thần đoàn kết này vẫn tiếp tục, thể hiện trong những “bức tranh hang động” kỹ thuật số mới của chúng ta.
 
Chính những bài học của đại dịch đã khiến chúng ta hiểu được được lý do tại sao việc ở cùng nhau trong cùng một không gian, về mặt vật lý, giờ đây lại quý giá hơn bao giờ hết. Nó cũng tốn kém nữa. Chúng ta cần một căn phòng thực, cần thời gian. Tôi cần kinh phí cho các chuyến bay và nơi lưu trú. Bạn phải dành thời gian trong lịch trình của mình. Việc tụ họp như thế này là một sự kiện hiếm hoi – vì thế mà rất có giá trị.
 
Sylbee-talk-2.png
 
Sylbee-talk-3.png
Buổi chia sẻ của Sylbee Kim tại Thư viện Heritage Art Space. Ảnh: Cao Thiên Thanh
 
Có một khát khao mạnh mẽ bất chấp sự khác biệt của mỗi người, chúng ta luôn muốn được kết nối. Chính cơ thể cho phép điều này xảy ra, vì vậy chúng ta trước hết cần duy trì điều đó. Nó khiến chúng ta trở nên khác biệt, đúng vậy – nhưng cũng đưa chúng ta đến gần nhau hơn. Và có lẽ thông qua sự trao đổi đó, chúng ta bắt đầu tìm thấy điểm chung. Nó có thể bắt đầu đơn giản như: cơ thể tôi ở cạnh cơ thể bạn. Chúng ta đang chia sẻ thời gian và không gian. Đó là nền tảng – không chỉ cho xã hội mà còn cho nghệ thuật. Những họa sĩ hang động biết điều này.
 
Cá nhân tôi cần định hình những không gian như vậy thông qua nghệ thuật, vì trong thực tế hằng ngày của mình, tôi không cảm thấy an toàn. Tôi thường rất khó kết bạn. Thông qua nghệ thuật, tôi tìm được những người khác giống mình. Tôi muốn chứng minh rằng: chúng ta không đơn độc. Vì một không gian như vậy không phải lúc nào cũng được ban tặng trong thế giới thực, nên tôi cố gắng tạo ra nó thông qua tác phẩm của mình – đầu tiên là trong tưởng tượng. Và nếu tác phẩm gây được tiếng vang, có thể ai đó sẽ nói, “Ồ, có lẽ chúng ta có thể làm điều này trong đời thực”. Một sự hiểu biết sâu sắc hơn sẽ phát triển – một cộng đồng sẽ xuất hiện. Đó là những gì tôi đang cố gắng làm: khơi dậy sự khởi đầu cho một khoảng không-thời gian chưa từng tồn tại.
 
Sylbee Kim
Bài giảng tại Heritage Art Space, Tháng 4/2025
Út Quyên ghi chép, biên tập và chuyển ngữ với sự thông qua của nghệ sĩ
Hiệu đính: Thu Thảo.

 

Sylbee-talk-1.png
Sylbee Kim (right) sharing at Heritage Art Space Library. Photo: Cao Thiên Thanh.
 
Introduction: Art between Body and Mind
 
I am a South Korean citizen, but I’ve been living in Berlin for the past 20 years. When I return to Korea, I often feel like a visitor by now—or I end up working most of the time—while in Berlin, I still don’t feel fully anchored either, as I don’t completely belong to German society. I exist in an in-between space, and this feeling of being “in-between” continues to shape both my personal and artistic identity.
 
I first came to Vietnam through a project called Song of the Wind, initiated by Korean curator Sunyoung Oh. This year, she launched the research phase of the project, and I’ve just arrived in Vietnam two weeks ago. I’ll be staying until the end of April with several plans in motion. One of the most meaningful experiences so far was visiting La Pán Tẩn in Mù Căng Chải—a journey filled with learning and reflection. If you have any suggestions for where I should go, who I should speak with, or what communities I should learn more about—especially those often overlooked in Hanoi—I would be very grateful.
 
This current state I find myself in, both as a person and an artistic practitioner, resonates deeply with the title of my presentation today.
 
The more time I spend in Korea and Germany, the more I find myself drawn not just to their differences, but to their unexpected commonalities. Since entering the art world in 2010, after completing my second degree in Germany, I’ve become increasingly interested in seeking a common ground between seemingly disparate cultures and experiences. My research in Vietnam reflects that: I’m exploring the diverse communities and minority voices within the country and trying to uncover whether values or collective hopes could be discovered and form a ground for deeper understanding of each other.
 
I would describe this process as collecting pebbles from the riverside—each unique, with its own history—and gently stacking them together, like the stone pile of wishes you see near Korean temples. These anonymous stacks are built one stone at a time, embodying quiet prayers or hopes. That’s the visual metaphor for what I’m trying to do: gathering personal stories and lived experiences that might form something meaningful together.
 
The title of this presentation also comes from how I’ve traveled over the years with my art. Initially, I moved mostly between Berlin and Seoul, but over time, other places emerged between those two points—like Jordan, where I traveled in 2019 with a group from Berlin of international artists. We collaborated with local artists in Amman, and strangely, I felt a deep familiarity, almost like a stop on the way to my motherland. I realized then that despite cultural differences, there are shared affective landscapes across borders—untranslatable realities I couldn’t have imagined without physically being there.
 
BodyArtMin2.jpeg
Image © Sylbee Kim.
 
Last year, I made a simple diagram to reflect on this. It showed how my physical body may be in one place, but my imagination, my longing, my thoughts, are elsewhere. I wish my art can become a time-space where distant places, people, and memories could converge. For example, I might be walking down the street in Berlin thinking about my friends in South Korea, and at the same time, noticing how my body is perceived differently in that physical space. There’s the I and the You, the Here and Now, and the Elsewhere and Someday. There’s the real world we inhabit, and the virtual one we’re simultaneously embedded in—connected through digital networks.
 
I think my art practice has always been about navigating these in-between zones and possibly overlapping layers of existence. That’s perhaps an abstract way to begin, but it’s how I make sense of my position before I share more concrete images and stories from my journeys.
 
Art Education In Between
 
The Korean National University of the Arts (K-ARTS), where I got my first bachelor degree, was a government project founded to provide arts education that is comparable to international level, so that talented students can stay in South Korea instead of striving to study abroad. At its conception, the university was composed of only six schools—Drama, Dance, Music, Film and Multimedia, Visual Arts, and Korean Traditional Arts—with no humanities or sciences. It was designed as a progressive alternative to elite university art faculties, with more experimental programs.
 
The admission process was unconventional. Instead of aligning with the national university entrance exam schedule in November, the school began its independent selection in August. Tuition was lower than that of private universities, and scholarships supported both local and international exchange programs. When I entered the school, it was only three years old—its infrastructure was incomplete. Exhibition spaces were limited. The visual art department was housed in a former Korean CIA building, repurposed with leftover military equipment like old radar systems, and spaces once used for surveillance or even torture. Many of these odd, neglected corners were reclaimed by students as makeshift exhibition and production spaces.
 
In our final year, the school was trying to divide students’ graduation exhibitions in three batches to be shown at a small off-campus gallery, which we didn’t like. In response, we organized our own show in the basketball hall on campus. We built walls, designed booths, and transformed the space entirely ourselves. That rebellious and creative spirit birthed what has now become a tradition. I believe this is the kind of support students need—enabling time and space to build something from what is available. For me, art school was a safe space for experimentation, free from censorship, where peer critique and shared input formed the core of education. Sometimes, history begins from what we build with what’s already at hand.
 
Learning from Legacy: From Minjung Art to Contemporary
 
This first image is from the Minjung Art movement in South Korea during the turbulent 1980s, a time of military dictatorship and intense political activism. Artists then used bold, provocative visual language—often on banners displayed in public spaces—to engage the public and resist authoritarianism. Many of those artists, mostly male, became prominent figures in the art world and political culture after democratization in the 1990s and 2000s. Over time, their radical work became institutionalized, archived, historicized, and commodified.
 
One of my first professors, Ahn Kyuchul, was part of a generation bridging political art and what we now consider contemporary art. His work retained critical engagement but was more formally intricate and conceptually nuanced.
 
When I entered K-ARTS in 2001, I was actually enrolled in the Department of Art Theory. The first-year curriculum included a sampler of practice-based foundation courses—drawing, sculpture, and performance—so theory students could understand how artists work. I was so drawn to making art that I decided to double major in Visual Art from my second year.
 
Professor Ahn’s class was very popular, and rather competitive to enter. I was the only theory student, and others wondered why I was there. Professor Ahn told the class, “Accepting her will enrich both sides. We must learn to ‘tolerate’ her presence.” That was my official entry into the world of contemporary art practice.
 
Prof. Ahn had studied in Stuttgart, and many of other influential Korean practices that attracted me back then also had ties to Germany. In my fourth year, Prof. Ahn took a sabbatical year, and our class was led by Gimhongsok, part of a younger generation of conceptual artists. His collaborative project Xijing Men, with Tsuyoshi Ozawa (Japan) and Chen Shaoxiong (China), included satirical performances like a fake Olympic Games and the invention of a fictional capital, “Xijing”—a playful critique of Asian masculinity and nationalist identity.
 
Gimhongsok had studied in Düsseldorf, and I began to wonder: why were so many great, progressive artists connected to Germany? That curiosity led me to pursue my graduate studies there. Around my third year, I had also started working with video, which felt liberating—especially as a young woman overwhelmed by the material physicality demanded in traditional studio art. Video gave me freedom.
 
Studying in Germany: A Different Perspective from Female Artists
 
Only while preparing for this presentation did I realize something striking: all my art professors in Korea were men, and all in Germany were women. This might reflect the different stages of gender equality in academia. Apparently Germany had embraced the idea of female art professors earlier, while South Korea was still developing in that regard.
 
My first professor at the University of the Arts Berlin (UdK Berlin) was Maria Vedder, a video artist who was active since the 1970s. Her work was conceptual but also image-rich, exploring the meta-nature of video as language. One of her key works, The Heartbeat of the Anubis (1988), is a layered, filmic exploration.
 
The video art department was housed within the College of Design, and at times it felt overly technical. So I also attended classes in the College of Fine Art, where I learned from Christiane Möbus, a sculptor whose work incorporated nontraditional materials to humorously critique contemporary life. I felt Möbus had a certain punk spirit, with the material twist in her work subtly challenging dominant narratives and gender norms. Today, also artists like her—once seen as radical—are now celebrated in major retrospectives.
 
At the end of my Bachelor studies, Hito Steyerl joined UdK. Her practice was at the verge of gradually developing from political documentary filmmaker and philosopher to one of the most influential digital video artists with a very powerful approach toward new digital languages. Her concept of the “poor image”—low-res, copied, spread media fragments from the internet—was incredibly liberating for me. It confirmed that pristine production doesn’t need to be a prerequisite for a video art work. Texture, distortion, and meta-critique could all be valuable materials in art.
 
Her work taught me that any experiment can turn out valid, if the surface and materiality of the video works well for the concept and structure. Steyerl is now known for her experiments with digital media, including AI and speculative image-making. 
 
Access to art education is definitely a privilege—anywhere in the world. But after graduating, I experienced a kind of disconnection. Studying art is one thing; entering the art world is something entirely different.
 
Fifteen years ago, both Berlin and Seoul had vibrant artist-run spaces. These were often short-lived, surviving only two or three years. In Berlin, many of these spaces received small sponsorships—like free beer from local breweries meant for opening nights. But often, even that beer was sold to cover basic exhibition costs. Most of those spaces no longer exist. Berlin has become increasingly gentrified, and a lot of “junk spaces” artists once used have disappeared.
 
In Seoul, the situation feels even more extreme. To build community, young artists often rent spaces and re-rent them at high prices to other artists. Each year, organizations like the Korean Arts Council and the Seoul Foundation for Arts and Culture publish lists of exhibitions eligible for funding. As soon as those results are released in January, the artists with secured funds need to re-apply and compete to secure popular rental spaces. I understand why this developed as such in Seoul, a hyper capitalistic city, yet I don’t see it as a sustainable model.
 
Exhibiting art is now less accessible than it once was. Hence, younger artists often focus on events, workshops, and talks instead of sticking to conventional exhibition models. With the arrival of the Frieze Seoul Art Fair, introduced a few years ago, many artists desire entering directly into the market after graduation. But this model is intensely competitive. I’ve been fortunate that I could enter my career through institutional channels—off-spaces, museums, and biennials—but I could barely access the commercial market. After all, video doesn’t sell easily.
 
In my 30s, I felt pressure to prove that I could sustain my practice—through any means possible. But after turning 40, something shifted. I’m now looking for a “third way”—something that could run parallel and less dependent on commercial and institutional directions, pondering more social and ecological choices. I believe art shouldn’t only be for the rich and the famous. I’m still experimenting with what that means.
 
Combining Parallel Realities 
 
When I was invited to give this lecture, we were interested in exploring how to integrate the setup of a library with the idea of art education. HAS suggested that, since many of the audience members are also making their own work, it could be meaningful to speak about how I combine two seemingly parallel realities in my artistic practice. In the next part of this presentation, I will introduce three of my works that reflect this bridging of different dimensions—historical and contemporary, digital and analog, personal and collective.
 
Lover Boys (2009)
 
This was my Bachelor’s graduation work in Germany. At that time, I was questioning the need to create new images in a world already oversaturated with visual material. I deliberately avoided producing “perfect” imagery, and worked with found footage instead, to explore existing image economies.
 
Lover Boys-Sylbee.png
Sylbee Kim, Lover Boys, 2009. Video still © Sylbee Kim. (See Lover Boys excerpt)
 
In Lover Boys, I juxtaposed two seemingly distant realms: K-pop fan cams and ancient Roman sculpture. Specifically, I looked at Emperor Hadrian’s commemoration of his deceased young lover, Antinous, through sculpture—a gesture of immortalizing love. I was fascinated by how others create images out of intense affection, while I felt unable to do so myself. What drives someone to produce visual representations of their beloved, sometimes obsessively?
 
The K-pop material I used came from the second generation of boy bands, which were notably more androgynous and youthful than the masculine first generation. K-pop, as an industry, is a site of image construction where identities—gendered, historical, aspirational—are constantly fluid.
 
I connected this with literary and historical fragments, including writings by Fernando Pessoa, who penned a prose about Antinous, and quotes from Sappho, one of the earliest known lesbian poets from ancient Greece, and fan fictions. These layers created an entangled dialogue between ancient episodes, contemporary fandom culture, and image-making as emotional labor.
 
Trinity: Finance-Credo-Spirituality (2019)
 
Jumping forward ten years, I was invited to participate in an exhibition at the National Museum of Modern and Contemporary Art in Seoul in 2019, which focused on cryptocurrency and emerging technologies as existential conditions.
 
In Korea around 2018, there was a speculative boom in cryptocurrencies like Bitcoin and Ethereum. Many young people borrowed from banks or sold their homes to invest, hoping to surpass the wealth of their parents. After the inevitable market crash, many faced financial ruin—and some even took their lives. A meme circulated at the time: “There’s nothing left to do but pray.” This prompted me to explore the strange overlaps between finance, credit or belief systems, and spirituality. The desire to accumulate surplus wealth, in hopes of transcending limitations and living eternally, echoed ancient human impulses—like early communities raiding neighboring villages to secure resources. There’s a timelessness in that hunger for “more,” often dressed in new language.
 
Trinity-Sylbee.png
Sylbee Kim, Trinity: Finance-Credo-Spirituality, 2019. Video still © Sylbee Kim. (See Documentation: Trinity: Finance-Credo-Spirituality)
 
For the installation in Seoul, I designed a box structure. A logo merging religious and commercial symbols was painted on its exterior, while the interior evoked a prehistoric cave. Three 3D-printed objects hung inside, each used by characters in the main video projection: a diagram of an artificial neural network, a mobile device for shamanic communication, and a dual-faced spiritual mask. These objects mirrored the convergence of ancient ritual and modern technology.
 
I was particularly intrigued by how emerging tech borrows old terms—like “neural network”—projecting familiar, bodily association onto unfamiliar tools. This piece was also about revealing those hidden continuities. The mask inside the box combined acupuncture points with facial recognition nodes—touching on wellness, surveillance, and mythology. On its reverse, keywords around tech innovation and body were written with a 3D pen and then resist-dyed, like a modern relic. My process involved initial sketches, 3D modeling, and collaboration with three women who embodied archetypes from religion and art history. I also looked at Korean architectural forms such as shamanic ritual corners, Buddhist dance costumes, as well as the geometry of the islamic sanctuary in Mecca—to weave together new technologies with age-old wisdoms.
 
At its core, this work asks: When we say “credit” in finance, what are we really invoking? A belief that something—or someone—will return, repay, regenerate. That belief system is curiously connected to spirituality.
 
Bodies off Coordinates (2023)
 
This work emerged during the pandemic, after visiting a temple in Ayutthaya, Thailand. There, I saw a large Buddha statue whose thumb was tied with a rope that forked out and connected to smaller Buddhas outside the main building. That image struck me: a symbolic link that tied disparate bodies into one continuum.
 
I started working with found stones and biodegradable materials—edibles, natural fibers, borrowed items. The pandemic made me reconsider the lifecycle of art installations: so much labor and cost for exhibitions that last a few months, also for video art, which often demands expensive hardware and electricity usage. I began asking: Can I still make meaningful work without external funding? Also without any permanent infrastructure?
 
For this piece, developed for MAP 2023 between Bremen and Hanoi, I created an incense tray made of seaweed, designed a temple-like space, and produced a video to lay flat on the floor, with no fixed orientation—no top or bottom, no left or right. I wanted to make something both sacred and impermanent, like the act of rotating around a pagoda in Korean Buddhist temples, where wishes are granted through praying in circular movement.
 
Bodies off Coordinates-Bremen-Sylbee.JPG
 
Bodies off Coordinates-Hanoi-Sylbee.jpg
Sylbee Kim, Bodies off Coordinates, 2023, exhibition view of MAP 2023: Alternative Mobility, Dauerwelle, HfK Bremen, photo by Ingo Vetter; Gia Lâm Train Factory, Hanoi, photo by Ngô Trần Phương Uyên 
 
The performers were three immigrant students at the Bremen University of the Arts. For them, I developed a costume with many pockets inspired by the figure of the bobusang—a traditional Korean traveling merchant who carries a large sack, moving from town to town, buying and selling goods. This nomadic lifestyle reminded me of the Silk Road as well, where traveling figures appear across cultures—each depicted differently but rooted in the same idea of long-term journeys and exchange.
 
The choreographed gestures evoked the sense of rescue and survival—such as reaching for one another in water. I designed functional tools, like incense-lighting devices, that resembled prehistoric fire stones. I also incorporated my own hair, grown for donation, as 3D-scanned material in the video—blending body, ritual, and technology.
 
Bodies off Coordinates-1-Sylbee.png
Sylbee Kim, Bodies off Coordinates, 2023. Video still © Sylbee Kim.
 
Bodies off Coordinates-2-Sylbee.jpg
Sylbee Kim, Bodies off Coordinates, 2023, open shooting, Neuhalle, HfK Bremen. Photo by Kuo-Wei Lin.
 
I had three shootings with students: two in and around the campus, and one open session where visitors entered the space and “paid” their entrance fee by adding a stone—to have their wishes granted—next to the temporary “temple.” These stones, collected from around the neighborhood, became part of the installation. The final work was shown simultaneously in Bremen and Hanoi. Although I couldn’t travel to Vietnam in the end, my work acted as a portal—connecting spaces across time and geography.
 
At the exhibition in Hanoi, I learned that in Vietnamese belief, if incense curls as it burns, it means your wish has been granted. I was really happy to learn about it. 
 
Bodies off Coordinates-3Sylbee.jpg
Sylbee Kim, Bodies off Coordinates, 2023, exhibition view of MAP 2023: Alternative Mobility, Gia Lâm Train Factory, Hanoi, photo by Ngô Trần Phương Uyên.
 
Navigating in the Contemporary Art World
 
Politics and Contemporary Art: The Shifting Art Landscape in South Korea
 
When the impeachment of the South Korean president began on December 3, 2024 (I was in Germany at the time), I followed everything online. I couldn’t be there for the past months. Before coming to Hanoi, I was briefly in Seoul and it was the final week of protests. I saw the impeachment after a week in Hanoi, again online.
 
What struck me most was who emerged as a new power in the movement: young women in their 20s and 30s. Historically, South Korea’s democracy movement has been led by men—now in their 50s and 60s. Within that movement, women’s issues were often sidelined. But this time, it felt different. While many young men in Korea were moving toward the far-right, young women were becoming more radical in their feminism, more active in politics, and more visible finally. It was the first time in Korean history that a political mass movement was visually shaped by young women holding K-pop lightsticks in protest. That moment redefined what political agency looked like.
 
During those months, my artist friends and I couldn’t focus on making art. No one felt like producing anything. We wanted to be out there, gathering in the square, fighting for something shared. There was an emotional power in that space—people honoring the painful legacy of Korea’s democracy, refusing to let it be erased. So many inventive and creative expressions were introduced during the protest, which for me were the most powerful art form in South Korea now, and that feeling was shared among many artists.
 
Turning to the question about trends in contemporary Korean art: the scene has changed dramatically in recent years, especially with Frieze Seoul and rising global recognition. There’s a widening gap between how Korean art is perceived abroad and how it’s lived at home. Commercialism is thickening. Many young artists now race into the market. But at the same time, other artists are becoming more visible in their independent, activist, and process-based practices—addressing political, ecological, and social issues head-on. Institutions often lag behind, but once something new gains traction, they absorb it into curatorial frameworks.
 
The real question is: what happens next? Every wave passes. If you’re riding one now, what will you do when it ends? What matters is how your philosophy evolves over time—not just your ability to stay visible.
 
AI in Art: Just Another Tool?
 
AI is a tool—of course this is only a very rough idea. Last year, I watched a Green Party conference in Germany where politicians debated how to regulate it. One writer offered a memorable metaphor: AI is like a washing machine. You load it with input and wait to see how it transforms it. So maybe we shouldn’t even call it “intelligence,” but a washing machine, she said. It may change how we live, like how before washing machines, people still did laundry by hand at the river. Of course, AI developers would disagree—but it’s one perspective.
 
As a media artist, I’ve always worked with evolving technology—video formats, resolutions, editing and compositing tools. AI is part of that continuum. But the real question is: why are you using it? What do you want to do with it? Today, AI enters our practice because the Zeitgeist—the spirit of our time—allows it. And artists reflect that spirit not by blindly adopting it, but by making it speak. The tools change, but the impulse remains: to tell the story of now, and what might come next.
 
Artists are the ones who twist the tool into something else, something prophetic maybe. Perhaps those early cave painters were just the ones who could distinguish subtle shades as pigments out of soil—who saw something others couldn’t. These are tools of our era, just like how pigment was a tool in the caves. Artists are the ones who put pigment to laundry instead of detergent. And it comes out as a new color the world hasn’t seen before.
 
AI challenges old ideas of authorship. Copyright laws still struggle to catch up. If you include an AI-generated scene in a video and try to sell it to a museum, it could raise legal and ethical questions later on.
 
Back in 2009, I made Lover Boys, a piece sourced from YouTube. The materials had already been uploaded, re-uploaded, and remixed so many times that their origin, context, and authorship were unclear. I used that ambiguity to navigate (or detour) copyright—though it also meant the work was hard to sell.
 
Perhaps it’s time to invent new models of authorship. We no longer need to pursue the myth of the “great master.” The art world holds many desires: to be a celebrity, a craftsperson, an activist. I believe all of them should continue. But the more diverse and multiple, the better.
 
The Preciousness of Being Together in the Physical World
 
During the pandemic, many people died—and at the same time, it was an existential moment for nearly everyone around the globe. For the first time in contemporary history, we collectively experienced physical isolation, across continents, all at once. It was a strange kind of togetherness—separated but synchronized—mediated through screens. We knew, in real time, what people in Wuhan, Seoul, Berlin, or Cape Town were going through. That sense of simultaneous global awareness profoundly shifted how I think about myself in relation to others.
 
We tried to make up for the absence of real-world encounters by moving everything online—learning, perceiving, meeting. In Berlin, we were locked down for three months solid. In Korea, everyday life continued more or less normally, but there was a different kind of suppression at play. Across the world, everyone dealt with the situation through the resources and infrastructures they had. The contrast was extreme and telling.
 
Like many others, I took up running. I baked sourdough. I still do both. But for the first time, I became deeply aware of my body’s direct connection to its environment—the rhythm of my breath, the light on my skin, the air entering my lungs. It was physical, undeniable, irreplaceable.
 
That led me to think about prehistoric cave painters. Back then, our divisions—national, cultural, social—were yet to be defined. People gathered in caves as communities, simulating the next hunt and a shared survival. These early rituals were perhaps the first narrative artworks in human history. They were made together, for something beyond the present. Today, in our era of virtual culture, we may not be able to physically gather in the same ways, but it somehow continues in this spirit of togetherness, manifesting our new digital “cave paintings.” 
 
So from the lessons of the pandemic, we’ve learned why being together in the same space, physically, is now more precious than ever. It’s expensive too. We need a physical room. We need time. My flights and stay had to be covered. You made space in your schedule. Gathering like this is a rare event—it’s valuable.
 
Sylbee-talk-2.png
 
Sylbee-talk-3.png
Sylbee Kim sharing at Heritage Art Space Library. Photos: Cao Thiên Thanh.
 
What’s powerful is that even in our differences, we still hope for connection. It’s the body that allows this to happen, so we need to keep it up first. It makes us distinct, yes—but also brings us into proximity. And perhaps through that exchange, we start to find something common. It could start as simple as: my body is next to yours. We’re sharing time and space. That’s foundational—not just for society, but also for art. The cave painters knew this.
 
Personally, I need to configure such spaces through art, because in my everyday reality, I don’t feel safe. I often don’t find peers. Through art, I search for others like me. I want to build a kind of proof: that we are not alone. Since such a space isn’t always granted in the real world, I try to create it through my work—first in imagination. And if the work resonates, maybe someone says, “Ah, maybe we can do this in real life.” A deeper understanding grows—a community emerges. That’s what I’m trying to do: to spark the beginning of a time-space that doesn’t yet exist.
 
Sylbee Kim
Lecture at Heritage Art Space, April 2025
Transcripted and edited by Út Quyên with final revisions by the artist.
 

m9s3n51ug6791icx
TinTuc
undefined
lwq10taplbrw0rhp